DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 12/16 ĐầuĐầu ... 21011121314 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 111 tới 120 của 160
  1. #111
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    45.THIỀN SƯ PHÁP THUẬN (925-990)

    Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Ải (1). Không biết người đâu. Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.

    Ðang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư (2).

    Năm Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:

    "Song song ngỗng một đôi

    Ngửa mặt ngó ven trời".
    (*)

    Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:

    "Lông trắng phơi dòng biếc

    Sóng xanh chân hồng bơi" (**)

    Giác do đó thán phục (3)

    Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:

    Vận nước như mây quấn

    Trời Nam mở thái bình

    Vô vi trên điện các

    Xứ xứ hết đao binh"
    (***)

    Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1 quyển, lưu hành ở đời.


    _________________

    Chú thích :

    (1)
    Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói "nó nằm tại phía đông huyện Tam dương, cách huyện lỵ 6 dặm". Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua "tục gọi là núi Trống". Núi này cũng "ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần". Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì, phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Ðó là một có thể.

    Nhưng Hồng Ðức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Ải, rồi chua thêm "có núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở". Khảo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ nào tên chợ Ải cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng "núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó". Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ải quận phải chăng là chợ Ải đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết khác.

    (2)
    Nguyên văn: Ỷ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Ðại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn một lá thư xin cho Ðinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.

    Toàn thư chép: "Thần phụ mỗ huynh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần, hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi tâm, cử thánh đại diên".

    Tổng hội yếu chép: "Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Liễn, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ viễn di, đồng trụ chi hư già tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành". Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản chép.

    (3)
    Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: "Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui ngâm:

    Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?

    Ngửa mặt ngó ven trời.


    Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng:

    Lông trắng phơi dòng biếc

    Sóng xanh chân hồng bơi.


    Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng:

    May gặp thời minh giúp việc vua

    Một mình hai đợt sứ Giao châu

    Ðông đô đôi biệt lòng thêm luyến

    Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa

    Ngựa đạp mây mù qua sóng đá

    Xe rời núi biếc thả dòng đưa

    Ngoài trời còn có trời soi rạng

    Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.


    Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: "Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu".

    Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Ðường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:

    Nga nga nga

    Khúc hạng hướng thiên ca

    Bạch mao phù lục thủy

    Hồng chưởng bát thanh ba.


    ------------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    鵝鵝兩鵝鵝,
    仰面向天涯。


    Nga nga lưỡng nga nga,
    Ngưỡng diện hướng thiên nha.



    (**)

    白毛鋪綠水,
    紅棹擺青波。


    Bạch mao phô lục thuỷ,
    Hồng trạo bãi thanh ba.



    (***)

    國祚如藤絡,
    南天裏太平。
    無為居殿閣,
    處處息刀兵。


    Quốc tộ như đằng lạc
    Nam thiên lý thái bình
    Vô vi cư đạo các
    Xứ xứ tức đao binh.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  2. #112
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Nga nga lưỡng nga nga.




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  3. #113
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Quốc tộ như đằng lạc




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. #114
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts

    46.THIỀN SƯ MA HA {Tên cũ là Ma Ha Ma Gia}



    Chùa Quan ái, làng Ðào gia, Cổ miệt, tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo tánh họ Dương. Cha tên Bối Ðà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối{Xưa gọi là Ðà Phan}(1). Lớn lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.

    Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc diễn tập kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: "Sao dùng cái học bên ngoài đó(2), chắc chắn không hiểu được nghĩa lý". Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt chùa Ðông lâm ngăn rằng: "Ðừng ! Ðừng !". Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.

    Về sau, Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáovới Ðỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Ðại bi tâm chú(3), trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.

    Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Ðạt vân tại Trường an, ngày ngày siêng năng tu tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.

    Hoàng đế Lê Ðại Hành(4) ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt đến lần thứ ba, Sư mới đáp: "Cuồng tăng ở chùa Quan ái". Vua cả giận, sai giam Sư ở chùa Vạn tuế trong Ðại nội, cho người khóa cửa canh gác. Ðến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.

    Sư đi về phía Nam đến Ái châu, ở trấn Sa đảng. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại chuyên nghề sát sinh.

    Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: " Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám trái".

    Sư bảo: "Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu thế cho".

    Dân làng thưa: "Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên".

    Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.

    Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: "Hoà thượng có thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài dạy".

    Sư bảo: "Ðã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi".

    Họ Ngô mừng thưa: "Có đau thì Ngô tôi tự thay cho".

    Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở hào hễn, van to: "Ông Ngô đâu chịu thay cho ta". Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.

    Sư tự chấp tay niệm: "Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng(5), cứu con với". Giây lát, bèn mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh hãi.

    Sư bảo: "Thân các ngươi bị bệnh, theo ta thì lành ngay. Ðến khi ta đau bụng, các ngươi không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?"Tất cả dân làng đều bái tạ xin vâng.

    Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Ðô úy Nguyễn Quang Lỵ(6) thỉnh Sư trụ trì chùa Khai thiên ở phủ Thái bình. Ðược sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau không biết Sư mất ở đâu (Nam tôn đồ nói pháp tự của Nam dương, ấy là lầm).
    [/COLOR]
    _________________

    Chú thích :

    (1)
    Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ 269c18-19: Phật ngôn: "Thính nhữ tác thanh bối". So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là "làm cho mình và người khác tham trước", trong khi tác dụng của nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Ða giữ chức Bối trong triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển tập anh còn chú thêm rằng, "Xưa gọi là Ðà phan". Chữ Ðà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và "Xà phan" quả là một phiên âm khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.

    (2)
    Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.

    (3)
    Ðại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Ðại bi chú v.v…Ðây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Ðạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ÐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài bản dịch của Già Phạm Ðạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v…Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết nó chắc cũng thông dụng thời Lý.

    (4) Hoàng đế Lê Ðại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Ðại vân, thì sự việc tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Ðại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm 1011, như Ðại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha "tại chùa Vạn tuế trong Ðại nội" phải xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Ðại vân vào thời Lê Ðại Hành là nơi Lê Ðại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm sao Ma Ha có thể "dời về ở núi Ðại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập" được? Từ đó, Lê Ðại Hành chắc là một chép lộn của Lý Thái Tổ.

    (5)
    Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Ðức Phật.

    Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp.

    Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.

    (6) Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Ðây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ, chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  5. #115
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    THẾ HỆ THỨ MƯỜI MỘT (BỐN NGƯỜI HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


    47.THIỀN ÔNG ÐẠO GIẢ (902-979)


    Chùa Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức(1). Người Cổ pháp(2), họ Lữ. Nhỏ học đòi việc đời, sau theo Ðinh Trưởng Lão(3) xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ mão Ðinh Thái Bình thứ 10 (979), thọ 78 tuổi.


    ______________

    Chú thích :

    (1)
    Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc.

    (2)
    Tức làng Ðình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.

    (3)
    Ðinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Ðinh.


    __________________________________________________ _________________________________


    48.THIỀN SƯ SÙNG PHẠM (1004-1087)


    Chùa Pháp vân(1), làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.

    Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành(2). Khi đã được tâm ấn, bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm hiểu giới, định.

    Về sau, Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Ðại Hành nhiều lần thỉnh Sư vào cung(3) để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.

    Năm Ðinh mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.

    Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:

    "Sùng Phạm ở nước Nam

    Lòng vắng, đỗ đạt về(4)

    Tai dài hiện tướng tốt

    Pháp pháp thảy ly vy.(5)


    _______________

    Chú thích :

    (1)
    Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Ða Lưu Chi.

    (2)
    Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.

    (3)
    Lê Ðại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Ðại Hành được. Chữ Lê Ðại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.

    (4)
    Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: "Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?" Tổ nói: "Ðợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước sông Tây, thì ta sẽ nói". Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:

    Thập phương đồng tụ hội

    Cá cá học vô vi

    Thử thị tuyển Phật trường

    Tâm không cập đệ quy.
    (*)

    Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6

    (5)
    Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này:

    "Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhất hết thảy, nhưng không bị ô nhiễm. Năm sắc không thể làm nhớp năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu lý của đạo. (xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.)

    ------------------

    Chú thích của hungcom :


    (*)

    十 方 同 聚 會

    個 個 學 無 為

    此 是 選 佛 場

    心 空 及 第 歸

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  6. #116
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Tâm không cập đệ quy




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #117
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    THẾ HỆ THỨ BẢY(BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)



    49.THIỀN SƯ VẠN HẠNH(?-1025)


    Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người Cổ pháp, họ Nguyễn, gia đình đời đời thờ Phật.

    Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận(1), xem thường công danh.

    Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Ðịnh Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi.

    Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa(2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Ðại Hành hết lòng tôn kính Sư.

    Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn(3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:

    "Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.

    Ðến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát(4), Sư tâu: "Xin mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.

    Thường có kẻ gian là Ðỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:

    "Cây đất sinh nhau bạc với vàng(5)

    Cớ sao thù địch mãi cưu mang

    Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt(6)

    Thật đến về sau chẳng hận lòng"
    .(*)

    Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.

    Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"(7). Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ(8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng(9). Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"(10). Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua(11) rằng:

    "Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:

    "Tật Lê chìm bể Bắc

    Hạt Lý mọc trời Nam(12)

    Bốn phương gươm giáo dẹp

    Tám cõi mừng bình an".
    (**)

    Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.

    Ðến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)(13), Sư không bệnh, nói kệ bài:

    "Thân như bóng chớp có rồi không

    Cây cỏ xuân tươi thu héo hon

    Tùy vận thịnh suy không hãi sợ

    Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".
    (14)(***)

    Rồi Sư dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ".

    Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:

    "Vạn Hạnh dung ba cõi

    Thật hiệp lời sấm xưa

    Quê hương tên Cổ pháp

    Chống gậy trấn kinh đô"
    (15)

    Về chuyện mộ Ðại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có tiếng:

    Tiếng phía Đông nói:

    Khánh vạn Tường nham với Quế phong

    Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn

    Triều tôn, Ðông liệt ba trăm thế

    Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng
    (16) .

    Tiếng phía Nam nói:

    Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà

    Ðời tươi trai gái lắm người ra

    Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa

    Tám phương gặp Nữ thường xuất vua
    (17).

    Tiếng phía Tây nói:

    Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ

    Trai gái đời cao thượng tướng thủ

    Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế

    Thọ mạng quân vương chín chín đủ
    (18).

    Tiếng phía Bắc nói:

    Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ

    Yên vui trai gái thường không khổ

    Sống lâu Thiên đức sướng đời đời

    Thế thế quân vương cầu Lục tổ
    (19).

    Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:

    Ðông có Vũ long xóm

    Nam có Vũ long bờ

    Tây có quán Rừng hạc

    Bắc có Trấn hải hồ
    (20)

    Chẳng lâu sau, sư lại nói:

    Chỉ trong ba tháng thôi

    Thân vệ lên ngôi xã tắc

    Lạc trà ấn có chữ Quốc

    Mười khẩu xuống nước đất
    (21)

    Gặp thánh gọi Thiên đức.(****)

    Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức(22) ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.
    (23)

    ______________

    Chú thích :

    (1)
    Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.

    (2)
    Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Ðại phẩm bát nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Ðại trí độ viết: "Ðà la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được". Xem Ðại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.

    (3)
    Ðại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Ðằng Giang".

    (4)
    Ðại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v…đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2-6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm tranm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".

    (5)
    Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Ðọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Ðỗ. Nguyên câu này chỉ Ðỗ Ngân. Ðỗ Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.

    (6)
    Nguyên văn: Ðương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt. Ðọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Ðề Ðạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:

    Giang tra phần ngọc lãng

    Quản cự khai kim toả

    Ngũ khẩu tương cọng thành

    Cửu thập vô bỉ ngã.


    Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  8. #118
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts

    (7)
    Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: "Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen thành chữ "Thiên tử", đến lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất". Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: "Nguyên trước đó viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng có lông đen viền thành hai chữ "Thiên tử". Người biết việc nói rằng bởi đó là cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Ðến lúc ấy Vua sinh nhằm năm Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng". Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.

    (8)
    Ðại Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: "Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét đánh, dấu để lại thành văn rằng:

    Gốc cây nhiều công

    Cơn lá xanh xanh

    Hòa đao mộc rụng

    Thập bát tử thành

    Cung chấn trời hiện

    Cung đoài sao chênh

    Trong sáu bảy ngày

    Thiên hạ thái bình
    (*****)

    Vạn Hạnh bèn gọi vua bảo: "Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất, nha �Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai là có sự nhân từ, khoan thứ rất được lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà lấy làm hận".

    Toàn thư , tờ 31a7-32a5: "Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét đánh. Người trong làng thấy rõ dấu sét có văn rằng:

    Gốc cây thăm thẳm

    Cơn lá xanh xanh

    Hoà đao mộc rụng

    Thập bát tử thành

    Ðông a vào đất

    Cây khác tái sanh

    Cung chấn trời hiện

    Cung đoài sao chênh

    Khoảng sáu bảy năm

    Thiên hạ thái bình.
    (*****)

    Thầy Vạn Hạnh riêng tự mình bình rằng: "Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu, nên viết chữ yểu. Một biểu thanh thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng gần nhau, nên viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý. Ðông a là họ Trần. Vào đất là người phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời tức là thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn nói vua yểu, tôi thịnh, Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi, trải khoảng sáu bảy năm thiên hạ thái bình vậy". Bèn gọi Lý Công Uẩn nói rằng: "Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì việc dấy nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay nắm binh quyền như Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay tuổi hơn 70, mong sao cho đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì thật là sự may ngàn năm một lần vậy".

    Việt sử tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn lời bàn của Vạn Hạnh lại thành: "Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang lên, mà không có ai như Thân vệ cả". Song lại thêm một lời bàn khá dài nói: "Xét một cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết. Trời có nói gì đâu. Ðó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân Tôn tặng thơ nói:

    Thật hiệp sấm trời xưa

    Quê hương tên Cổ pháp

    Chống gậy trấn kinh vua


    Xem mấy câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận cả bài cho tới câu"Dị mộc tái sinh" thì sự biện luận đó rõ ràng không sai. Từ câu "Chấn cung…" trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu huyền diệu, không chịu tỏ hết. Gần đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy diễn, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ gian phu dối toan làm việc phi phận, binh loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng thật mãnh liệt thay".

    (9)
    Mộ Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem Ðại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1 tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối truyện đây.

    (10)
    Chùa Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh.

    (11)
    Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: "Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi…lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực Thánh Vương". Toàn thư B1 tờ 34b5-6 viết: "…lấy Hoàng huynh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Ðạo Vương, con của Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản". Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép lại Toàn thư thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản, nên đã chua thêm là: "Thiên nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ". Nhưng rõ ràng theo Ðại Việt sử lược thì Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.

    Cứ vào truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương. Bằng vào những dẫn chứng trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Ðạo Vương, còn trong đây thì không thấy nói. Ðoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.

    (12)
    Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.

    (13)
    Cả hai bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược truyện các tác giả Việt Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành năm Thuận Thiên thứ 9 và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác ghi rất kỹ và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì "năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn Hạnh hóa thân". Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018, như từ trước tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ ứng, còn chữ thập lục bị đọc rút thành cửu.

    (14)
    Việt sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi "thầy Vạn Hạnh chết", viết: "Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa thân. Vạn Hạnh thường có thơ.

    Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

    Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

    Tùy vận thạnh suy hưu bố úy

    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.


    Vua thân hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ". (Những chữ in đậm là khác với bản ở đây).

    (15)
    Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ. Tam tế, mà đây dịch là "ba cõi", tức chỉ cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai.

    (16)

    Nguyên văn:

    "Khánh vạn tường nham dự Quế Phong

    Dương trường long thế dực tương tùng

    Ðông liệt triều tôn thế tam bách

    Lục tuất (thiếu hai chữ) đối thiên bồng".


    Khánh vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương của Nguyễn Ðán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy, nhưng chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì chưa thể khảo được. Ðông liệt và Triều tôn, chúng tôi cũng nghĩ là những tên đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Ðăng Thục, quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Ðông liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch đất của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu) long thể. Thực thể, nếu câu thứ hai đọc "Ngưu trường long thể dực tương tùng", thì ý nghĩa địa lý của bài thơ trên khá phù hợp với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý tờ 7b:

    Ðiều điều phát tổ khỉ căn nguyên

    Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền.

    Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu

    Bàn vu cục thế tợ ngưu niên

    Ðương khai nội ngoại giai kỳ huyệt

    Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên

    Xa xa phát tổ nỗi căn nguyên

    Uyển chuyển quanh co mạch khúc huyền

    Hữu kiên đến trái mà rẽ phải

    Nằm vào thế cục trâu lim dim

    Trong ngoài nên mở đều huyệt thiệt

    Núi soi sao lắm phước liên miên.


    Qua bài thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1 tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý mất ngôi,có dẫn viết: "Lại Cổ pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng có do đất". Như thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây? Phải chăng Cổ pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại vương đây là rút ra từ nó? Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Ðiều chắc chắn là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn Hạnh sáng tác.

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  9. #119
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts
    (17)

    Nguyên văn:

    Chính Nam phù ninh hộ trạch thần

    Vinh thế nam nữ đa xuất nhân

    Thiên đức phú quý mãn ốc thành

    Bát vạn hội nữ thường xuất quân.

    Phù ninh như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu "người làng Phù ninh". Rồi đến truyện của La Quý tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ 51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là "làng Phù ninh, phủ Thiên đức". Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên Phù ninh thuộc hạt Ðông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Ðào Quốc Hiển khoa 1691 v.v…Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Ðình bảng, tức đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế thuộc hạt Siêu loại, quê hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa 1526, Nguyễn Ðịch Khanh khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Ðình khoa1580 v.v…Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Ðào Cam Mộc hay một trong những khai quốc công thần của triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là Ðại đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Ðại đức thành Thiên đức, không những bởi vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu bằng chữ Thiên đức, mà còn vì sau đó vài dòng thì có câu "đổi Cổ pháp là Ðại đức", nhưng ai cũng biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ pháp làm Thiên đức, chứ không phải Ðại đức. Ðại đức trong câu ấy và Ðại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng "phú quý mãn ốc thành", như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn. Và chữ bát vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa chữ phương thành chữ vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì tại huyện Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Bát vạn ở phía Ðông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Ðường dựng tháp Bát vạn, để yểm nó nên có tên đó". Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp Ỷ Lan trên đường đi không" Nhưng với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫ�u sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ bát phương.

    (18)

    Nguyên văn:

    Tây vọng viễn vọng khán Thiên Trụ

    Dao thế nam nữ thượng tướng thủ

    Thiên đức phú quý dự viễn thế

    Quân vương thọ mạng cửu thập cửu.


    Thiên trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo sơn thủy phú trong Tả Ao chân truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:

    "Càn sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham

    Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu đỉnh nãi.


    (Núi càn cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương

    Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua có đỉnh chung)



    (19)
    Nguyên văn:

    Chính bắc Phù cầm đương bạch hổ

    An lạc nam nữ thường vô khổ

    Ðại đại Thiên đức trường thọ lạc

    Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.


    Phù cầm là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai người này đều quê quán làng Phù cầm. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên Phù cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Ðức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Ðấu hàn. Ðấu hàn là quê quán của Ðỗ An Vĩnh tiến sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và cả hai làng đó đều thuộc hạt Yên phong" nghĩa là thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đấy.

    Còn chữ Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy. Nhưng nó cũng có thể là một từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm, nên không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:

    Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên

    Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền

    Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội

    Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.


    Rồi nó chú tiếp thế này "Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong huyệt thì con gái sinh nhiều phú quý. Ðây là một quý cách". Nếu hiểu từ "bạch hổ" theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử không ghi rõ nên ta không biết được.

    Cuối cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành Ðại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.

    (20)
    Bốn câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc lâm, và Trấ�n hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó có thể là chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Ðịnh Huệ làm thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.

    (21)
    Nguyên văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Ðây là nhắc lại việc Ðịnh Không làm chùa Quỳnh lâm tại làng Ðình bảng, đào gặp 10 cái khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa "mười cái". Chữ Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa "chìm xuống nước". Xem truyện Ðịnh Không ở trên.

    (22)
    Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: "Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức". Việt sử tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.

    (23)
    Quốc sử chắc chỉ Ðại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Ðại Việt sử lược và Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông thành chữ "Thiên tử" và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau Lê Văn Hưu tước bỏ.

    -----------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)

    土木相生艮畔金,
    為何謀我蘊靈襟。
    當時五口秋心絕,
    直至未來不恨心。


    Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm (kim),
    Vị hà mưu ngã uẩn linh khâm?
    Đương thì ngũ khẩu thu tâm tuyệt,
    Trực chí vị lai bất hận tâm.


    ("Kim cấn" liền đôi như "thổ mộc",
    Cớ sao toan chước hại nhau ngầm?
    Thoạt nghe, bụng tớ "rầu" khôn xiết,
    Nhưng thực về sau chẳng bận tâm.)


    Chữ NGŨ và chữ KHẨU ghép thành chữ NGÔ (Ta, tớ, tôi)
    Chữ THU với chữ TÂM ghép thành chữ SẦU (buồn rầu)


    (**)

    蒺藜沉北水,
    李子樹南天。
    四方戈杆靜,
    八表賀平安。


    Tật lê trầm Bắc thuỷ,
    Lý tử thụ Nam thiên.
    Tứ phương qua can tĩnh,
    Bát biểu hạ bình yên.


    _ Tật lê là một loại cây có hoa vàng dùng trong Đông Y. Ở đây ám chỉ nhà Lê suy vong.
    _ Lý tử là cây mận. Ở đây ám chỉ nhà Lý sẽ nối tiếp mệnh Trời lên làm vua nước Nam.


    (***)

    身如電影有還無,
    萬木春榮秋又枯。
    任運盛衰無怖畏,
    盛衰如露草頭鋪。



    Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
    Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
    Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
    Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.



    (****)

    蓋三月之內,
    親衛登住社稷。
    落茶印國字,
    十口水土去,
    遇聖號天德。


    Cái tam nguyệt chi nội,
    Thân vệ đăng trụ xã tắc.
    Lạc trà ấn quốc tự,
    Thập khẩu thuỷ thổ khứ,
    Ngộ thánh hiệu Thiên Đức.


    Trong vòng ba tháng nữa,
    Thân vệ lên nối ngôi.
    Cây đa in chữ "quốc",
    Đất Cổ Pháp này thôi,
    Gặp thánh hiệu Thiên Đức.



    (*****)

    Thọ căn diễu diễu
    Mộc biểu thanh thanh
    Hoa đào mộc lạc
    Thập bát tử thành
    Đông a nhập địa
    Dị mộc tái sanh
    Chấn cung kiến nhật
    Đoài cung ẩn tinh
    Lục thất niên gian
    Thiên hạ thái bình


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  10. #120
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Thân như điện ảnh





    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  11. The Following User Says Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    hungcom (06-14-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •