THẾ HỆ THỨ BẢY(BẢY NGƯỜI, HAI NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
49.THIỀN SƯ VẠN HẠNH(?-1025)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức, người Cổ pháp, họ Nguyễn, gia đình đời đời thờ Phật.
Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận(1), xem thường công danh.
Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Ðịnh Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa(2), lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Ðại Hành hết lòng tôn kính Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn(3). Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:
"Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui". Sau quả nhiên như thế.
Ðến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát(4), Sư tâu: "Xin mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội". Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường có kẻ gian là Ðỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
"Cây đất sinh nhau bạc với vàng(5)
Cớ sao thù địch mãi cưu mang
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt(6)
Thật đến về sau chẳng hận lòng".(*)
Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ "Thiên tử"(7). Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ(8). Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng(9). Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ "Quốc"(10). Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua(11) rằng:
"Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi". Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
"Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam(12)
Bốn phương gươm giáo dẹp
Tám cõi mừng bình an".(**)
Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.
Ðến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)(13), Sư không bệnh, nói kệ bài:
"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".(14)(***)
Rồi Sư dạy đệ tử rằng: "Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ".
Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:
"Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh đô"(15)
Về chuyện mộ Ðại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có tiếng:
Tiếng phía Đông nói:
Khánh vạn Tường nham với Quế phong
Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều tôn, Ðông liệt ba trăm thế
Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng(16) .
Tiếng phía Nam nói:
Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà
Ðời tươi trai gái lắm người ra
Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa
Tám phương gặp Nữ thường xuất vua(17).
Tiếng phía Tây nói:
Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ
Trai gái đời cao thượng tướng thủ
Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế
Thọ mạng quân vương chín chín đủ(18).
Tiếng phía Bắc nói:
Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ
Yên vui trai gái thường không khổ
Sống lâu Thiên đức sướng đời đời
Thế thế quân vương cầu Lục tổ(19).
Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:
Ðông có Vũ long xóm
Nam có Vũ long bờ
Tây có quán Rừng hạc
Bắc có Trấn hải hồ(20)
Chẳng lâu sau, sư lại nói:
Chỉ trong ba tháng thôi
Thân vệ lên ngôi xã tắc
Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất(21)
Gặp thánh gọi Thiên đức.(****)
Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức(22) ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.(23)
______________
Chú thích :
(1)
Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống của nước ta.
(2)
Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn ngữ. Kinh Ðại phẩm bát nhã viết: "Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những tam muội, nên gọi đà la ni tam muội". Luận Ðại trí độ viết: "Ðà la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn và trì đều tự nhiên mà được". Xem Ðại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.
(3)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang". Toàn thư B1 tờ 14a1-3: "Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Ðằng Giang".
(4)
Ðại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: "Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v…đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm". Toàn thư B1 tờ 16a2-6: "Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận, Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm tranm người và thầy tu Ấn độ một người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm".
(5)
Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Ðọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Ðỗ. Nguyên câu này chỉ Ðỗ Ngân. Ðỗ Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả.
(6)
Nguyên văn: Ðương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt. Ðọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là "ta", thu với tâm là chữ sầu. Bồ Ðề Ðạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:
Giang tra phần ngọc lãng
Quản cự khai kim toả
Ngũ khẩu tương cọng thành
Cửu thập vô bỉ ngã.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.