DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 10
  1. #1
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Câu hỏi: Vì sao tái sanh?

    Chỉ vì tham ái, vì ưa thích, vì vui với cái được thấy (được nghe, được ngửi…) do vậy khởi tâm có cái tôi ưa thích và dính mắc vào cái được tôi ưa thích (ngã, ngã sở), từ đó hình thành nên căn nhà (thân/tâm) của chúng sanh. Kinh SN 23.2, trích bản TMC:


    “Tôn giả Rādha bạch Thế Tôn: “Chúng sanh, chúng sanh”, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là chúng sanh?

    - Này Rādha, dục nào (chanda), tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với sắc, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh (sattà)… thọ … tưởng … các hành … Dục nào, tham nào, hỷ nào, khát ái nào đối với thức, triền phược ở đấy, triền miên ở đấy, do vậy gọi là chúng sanh.

    Ví như, này Rādha, các đứa con trai hay các đứa con gái chơi với cái nhà bằng đất. Cho đến khi đối với những nhà bằng đất ấy, lòng tham chưa thoát ly, lòng dục chưa thoát ly, lòng ái chưa thoát ly, lòng khát chưa thoát ly, lòng nhiệt tình chưa thoát ly, lòng khát ái chưa thoát ly, thời chúng còn tham dính vào, thích chơi, chất chứa, và đắm trước những nhà bằng đất ấy.” (11)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Cái gì nuôi dưỡng chúng sanh?

    Đó là bốn loại thức ăn: thứ nhất, thực phẩm nuôi thân mạng (edible food); thứ nhì, xúc thực, tức là thế giới trong tâm hình thành từ tiếp cận căn-cảnh-thức (sense-impressions); thứ ba, tư niệm thực hay là hành (volitions); thứ tư, là thức thực (consciousness). Nhưng tất cả đều do ái mà ra. Kinh SN 12.11, bản dịch TMC viết, trích:


    “Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh. Thế nào là bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế, hai là xúc thực, ba là tư niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại chúng sanh được tồn tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh.

    Và này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện hữu? Bốn loại đồ ăn này do ái làm nhân, do ái tập khởi, do ái tác sanh, do ái làm hiện hữu.”(12)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có thể tiếp cận thế giới mà không đắm nhiễm, tức là vô sanh, hay không?

    Có thể, đó là khi thế giới căn-cảnh-thức dựng lập, mà không xem đó là thức ăn. Chữ “sắc” trong kinh dẫn sau là thế giới của “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường suy nghĩ) – nếu không say đắm vị ngọt của sắc (những cái thấy nghe hay biết…) thì không bị đắm chìm. Tương tự với thọ, tưởng, hành, thức.

    Kinh SA 13, bản dịch của hai thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức Thắng, trích:


    “Nếu chúng sanh nào không nếm vị ngọt của sắc thì sẽ không nhiễm đắm sắc. Vì chúng sanh nếm vị ngọt của sắc cho nên bị đắm trước.

    “Cũng vậy, chúng sanh nào không nếm vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức thì chúng sanh ấy không bị đắm nhiễm thức. Vì chúng sanh nếm vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức cho nên chúng sanh ấy bị nhiễm trước vào thức.” (13)

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  2. The Following User Says Thank You to minh thức For This Useful Post:

    gaiden (04-10-2019)

  3. #2
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Câu hỏi: Thế giới này sanh diệt thế nào, tức là tập khởi thế nào và đoạn diệt thế nào?

    Kinh SN 12.44, bản dịch TMC viết:


    “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới tập khởi?

    Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp, nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do duyên ái nên có thủ. Do duyên thủ nên có hữu. Do duyên hữu nên có sanh. Do duyên sanh, nên có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Ðây là thế giới tập khởi.

    Do duyên lỗ tai và các tiếng… Do duyên lỗ mũi và các hương… Do duyên lưỡi và các vị… Do duyên thân và các xúc… Do duyên ý với các pháp, ý thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ… Do duyên sanh nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh khởi. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tập khởi của thế giới.

    Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thế giới đoạn diệt?

    Do duyên con mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên. Do ba cái tụ họp nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt… Ðây là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Ðây là thế giới đoạn diệt.

    Do duyên lỗ tai và các tiếng… Do duyên lỗ mũi và các hương… Do duyên lưỡi và các vị… Do duyên thân và các xúc…” (14)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có một thức bất biến đã và đang luân chuyển kiếp này sang kiếp kia trong cuộc tái sanh?

    Không, không hề có thức bất biến nào như thế. Trong Kinh MN 38, bản dịch TMC, trích:


    “Tỷ-kheo tên là Sati khởi tà kiến: thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.

    Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi. Không có duyên, thức không hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho kẻ mê mờ ấy...

    ...Này các Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời [điểm] có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời [điểm] có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời [điểm] có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.” (15)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có trung ấm (giữa đời này và đời sau) không, và cách nào để vượt dòng sanh tử?

    Có trung ấm, tức khoảng giữa đời này và đời sau, nhưng Kinh không nói thời lượng trung ấm. Cách vượt thoát sanh tử là lìa chấp trước, không dính mắc. Trong Trung Bộ, Kinh MN 144, bản dịch TMC viết:


    “Tôn giả Mahācunda nói với Tôn giả Channa:

    —Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường trực tác ý: “Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ”. (16)

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  4. The Following 2 Users Say Thank You to minh thức For This Useful Post:

    gaiden (04-10-2019),lamebay (04-10-2019)

  5. #3
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Câu hỏi: Cái gì làm nhiên liệu cho tái sanh? Khi thân này đoạn tận trong khi chưa thọ thân khác, cái gì làm nhiên liệu cho trung ấm?

    Sanh là do chấp thủ, nhưng tham ái vẫn luôn luôn là nhiên liệu. Trong Kinh SN 44.9, bản dịch TMC viết, trích:


    “Ví như, này Vaccha, một ngọn lửa cháy đỏ khi nào có nhiên liệu (saupàdàna), không phải không có nhiên liệu. Cũng vậy, này Vaccha, Ta tuyên bố về sanh khởi đối với người có chấp thủ (sanh y), không phải với người không có chấp thủ.

    —Thưa Tôn giả Gotama, trong khi có gió thổi ngọn lửa đi thật xa, thời Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì làm nhiên liệu cho ngọn lửa này?

    —Này Vaccha, trong khi có gió thổi ngọn lửa đi thật xa, thời Ta nói chính gió là nhiên liệu. Trong khi ấy, này Vaccha, chính gió là nhiên liệu (upàdàna).

    —Thưa Tôn giả Gotama, trong khi một loài hữu tình quăng bỏ thân này để sanh vào một thân khác, thời Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì làm nhiên liệu cho thân này?

    —Này Vaccha, trong khi một loài hữu tình quăng bỏ thân này và sanh vào một thân khác, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng trong khi ấy chính ái (tanhà) là nhiên liệu (upàdànam).” (17)

    Bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi, dùng chữ cụ thể hơn, rằng khi đã từ trần mà chưa tái sanh:


    “When, Vaccha, a being has laid down this body but has not yet been reborn in another body, I declare that it is fuelled by craving. For on that occasion craving is its fuel.” (Dịch: Vaccha, khi một chúng sanh đã nằm thân này xuống rồi, mà chưa tái sanh trong một thân khác, ta nói rằng…) (17)

    Ghi chú #382 nơi trang 1456 của Bhikkhu Bodhi trong bản sách giấy Tương Ưng Bộ cho Kinh SN 44.9, nói rằng lời dạy của Đức Phật cho thấy có một khoảng trống trung ấm giữa thời điểm chết của thân này và thời điểm nhập thai cho thân sau, và Kinh này trái với kiểu lý luận “tái sanh tức khắc” của Theravada. (17)

    Bản Anh dịch của Bhikkhu Sujato cũng tương tự:


    “When someone who is attached has laid down this body, Vaccha, and has not been reborn in one of the realms, I say they’re fueled by craving. For craving is their fuel then.” (17)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có phải chúng sanh trong cõi trung ấm lang thang vất vơ như văn học dân gian thường nói?

    Trả lời rằng không nhất thiết, bởi vì tất cả đều từ hành nghiệp. Trong Kinh DN 2, Đức Phật sử dụng hình ảnh ngôi nhà dụ cho thân người, khi chết đi là rời nhà này để vào nhà kia, nhưng vẫn có những chúng sanh chưa vào nhà mới được, vẫn còn (nơi trung ấm) đang “đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư hay trên đài thượng.” Người trên đài thượng là bậc thánh được giải thoát trong nơi trung ấm, gọi là Trung gian Niết-bàn (Bhikkhu Sujato: They’re extinguished in-between one life and the next).

    Kinh DN 2, bản dịch TMC viết, trích:


    “Như vậy vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hành nghiệp của chúng.

    Này Ðại vương, ví như một tòa lầu có thượng đài, giữa ngã tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những người đi vào nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư hay trên đài thượng. Người ấy nghĩ: “Những người này đi vào nhà, những người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên đường, những người này ngồi giữa ngã tư, trên đài thượng”. Cũng vậy, này Ðại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.” (18)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có phương pháp nhanh chóng nào để giải thoát, không còn vướng gì nữa trong đời này, đời sau và đời chặng giữa (trung ấm)?

    Câu trả lời là có Thiền pháp như thế. Đức Phật nói trong Kinh Bahiya (Ud 1.10), ngôn ngữ rất minh bạch về đời chặng giữa, bản TMC:


    “- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, nàyBàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.” (19)

    Lời Đức Phật rất minh bạch rằng có một đời chặng giữa -- chúng ta quen gọi là trung ấm. Cuối bài sẽ dẫn thêm ba bản tiếng Anh của Kinh Bahiya.


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  6. #4
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Câu hỏi: Khi Tôn giả Màlukyaputta nói rằng tự thấy mình già rồi, nên xin Đức Phật thuyết pháp vắn tắt để tự thân khẩn cấp tu giải thoát, Đức Phật dạy pháp nào?

    Tương tự như Kinh trên, Kinh Màlukyaputta Sutta trích như sau, cũng nói về cõi trung ấm:


    “—Bạch Thế Tôn, dầu cho con già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, mong Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Mong Thiện Thệ hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Chắc chắn con sẽ hiểu ý nghĩa lời Thế Tôn giảng. Chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn...

    …này Màlukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, chỉ nghe được với những vật nghe được, chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, chỉ nhận biết được đối với những vật nhận biết được. Cho nên, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy. Do vì, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy, nên Ông không có: “Ở nơi đây”. Do vì, này Màlukyaputta, Ông không có: “Ở nơi đây”, do vậy, này Màlukyaputta, Ông sẽ không có đời này, đời sau, và giữa hai đời ấy. Ðây là sự chấm dứt khổ đau.” (20)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Thường nghe nhiều thầy nói về pháp tu vô sở trụ (không chấp trước – không trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp), xin hỏi pháp này có vượt sinh tử cả đời này, đời sau, và đời chặng giữa hay không?

    Đó cũng là pháp đoạn tận khổ đau ngay ở đây và bây giờ, chủ đề của Kinh Kim Cang. Kinh MN 144 cũng nhắc về đời này, đời sau, và đời chặng giữa, bản TMC trích:


    “Tôn giả Mahācunda nói với Tôn giả Channa:

    —Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường trực tác ý: “Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ”. (21)

    .. o0o ..

    Câu hỏi: Có thể giải thoát nơi trung ấm hay không?

    Rất là hy hữu. Một số vị vào được Niết Bàn nơi trung ấm thân, khi chết là vào Thánh vị A Na Hàm và từ đây vào Trung gian Niết bàn. Kinh AN 7.55, bản dịch TMC viết, trích:


    “Tỷ-kheo trong khi thực hành như vậy suy nghĩ như sau: “Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ”. Vị ấy có được xả. Vị ấy không tham đắm sanh hữu, không tham đắm tích tụ của hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh. Vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn. Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái bát bằng sắt được đốt cháy cả ngày và được đập đánh, một miếng vụn có thể văng ra và trở thành nguội lạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi thực hành, suy nghĩ như sau: “Nếu cái này không có, cái này có thể không phải của ta. Nếu cái này sẽ không có, cái này sẽ không phải của ta. Cái gì có, cái gì được thành, ta đều từ bỏ”. Vị ấy có được xả, vị ấy không tham đắm hữu, không tham đắm hậu hữu; với chánh trí tuệ, vị ấy thấy có con đường vô thượng tịch tịnh. Và vị ấy chưa chứng ngộ trọn vẹn hoàn toàn con đường ấy. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn mạn tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn hữu tham tùy miên. Vị ấy chưa đoạn tận trọn vẹn hoàn toàn vô minh tùy miên. Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy chứng được Trung gian Niết-bàn.”(22)

    Bản tiếng Anh của Bhikkhu Sujato nói rõ hơn: With the ending of the five lower fetters they’re extinguished in-between one life and the next. (Dịch: Do diệt tận năm hạ phần kiết sử, các vị này vào Niết bàn nơi thân trung ấm khoảng giữa đời này và đời sau.) (22)


    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  7. #5
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Câu hỏi: Chúng ta nên làm gì để giúp tất cả các chúng sanh, trong đó có cha mẹ nhiều đời của chúng ta, trong thân trung ấm, vì họ có thể đang “đi từ nhà cũ ra mà chưa tìm được nhà mới, đang đi qua lại trên đường, hay đang ngồi ở giữa ngã tư” với nghiệp thức bất định?

    Xin mạn phép trả lời rằng nên hàng ngày tụng Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Bản kinh ngắn này cũng có thể dùng cho pháp Thiền Tâm Từ, trong đó Đức Phật dạy là hãy nguyện bình an cho tất cả mọi loài, kể cả những loài sắp sinh (hiểu là trong thân trung ấm). Đây cũng là một trong những bản kinh xưa nhất, khi chư tăng còn phải sống nơi góc rừng, chân núi – ký số Kinh Từ Bi trong nhóm Kinh Tập ghi là Sutta Nipata I.8.

    Trích Kinh Từ Bi, bản dịch của Thầy Thích Nhất Hạnh:


    “Và đây là điều họ luôn luôn tâm niệm:

    Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.

    Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.

    Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.

    Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả mọi loài…” (23)

    Trong các bản tiếng Anh cũng chỉ mang một nghĩa cụ thể là thân trung ấm:

    Andy Olendzki dịch là: Whether born already or not yet born (dù đã sanh hay chưa sanh);

    Amaravati Sangha dịch: Those born and to-be-born (những ai đã sanh và sắp sanh);

    Ven. Khantipalo dịch: those that are here, those seeking to exist (những chúng sanh nơi đây, và những chúng sanh đang tìm nơi sanh).


    Có 19 bản dịch tiếng Anh Kinh Metta Sutta cũng ghi nối kết ở (23).

    Thêm nữa, Kinh Từ Bi nên tụng hằng ngày, Thiền Tâm Từ nên tập hằng ngày, không chỉ để cầu nguyện cho cha mẹ nhiều đời trong thân trung ấm và tất cả các chúng sanh ba cõi, mà còn vì lời Đức Phật dạy rằng cúng dường Đức Phật và hàng trăm bậc Thánh, rằng xây chùa và dâng cúng Tam Bảo cũng không có phước đức bằng “có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm… và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường.” (Kinh AN 9.20) (24)

    Do vậy, hằng ngày tụng Kinh Từ Bi, tu Thiền Tâm Từ cũng là một cách cúng vong tuyệt vời nhất vậy.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  8. The Following User Says Thank You to minh thức For This Useful Post:

    hoamacco (04-13-2019)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •