DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 86
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ THỈNH ÍCH (Hỏi đạo)
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tăng hỏi: Cách dụng công của con là ban đêm bất đảo đơn, đến bốn giờ sáng thì buồn ngủ, ban ngày dụng công thì theo phương pháp của Cổ Đức nói “Chẳng sợ vọng khởi, chi e giác chậm”, luôn luôn chiếu cố một niệm, một niệm mê rồi liền mau mau đề khởi, dụng công như thế hợp với pháp Thiền Tông chăng?

    Sư nói: Vọng niệm khởi là từ kiến, văn, giác, tri, ông muốn giác ngộ cũng phải dùng kiến, văn, giác, tri, cho nên mê với ngộ chẳng ngoài tác dụng kiến, văn, giác, tri, nơi phạm vi kiến, văn, giác, tri chẳng liên quan với Phật tánh. Trong bản thể Phật tánh chẳng có mê, với giác, ông dùng cái niệm “chẳng sợ vọng khởi, chỉ e giác chậm” ấy nhìn ngay chỗ mịt mù đen tối, nhìn đến sơn cùng thủy tận, được thấy bản thể Phật tánh mới biết rõ mê ngộ trọn chẳng dính dánh, khởi niệm diệt niệm đều là tác dụng của Phật tánh. Bất đảo đơn có ảnh hưởng sức khỏe, buồn ngủ thì phải ngủ, có sức khỏe dụng công tốt hơn.

    ***

    Tăng hỏi: Cách dụng công của con là theo Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri là căn bản của vô minh, tri kiến vô kiến ấy là Niết Bàn”. Con cho rằng tri kiến lập tri là ấn tượng trong bộ não, đã gieo hạt giống tức là căn bản vô minh, tri kiến vô kiến là nói cái tâm giống như tấm gương trơn, vật gì in vào không cũng không dính, vậy tâm không trụ tức là Niết Bàn.

    Sư nói: “Tri kiến tức là căn bản của vô minh" là nói người chưa kiến tánh tất cả đều do kiến, văn, giác, tri làm chủ, tất cả tri kiến lập ra đều là căn bản vô minh. ‘Tri kiến vô kiến ấy tức Niết Bàn" là nói người đã kiến tánh rồi thì Phật tánh làm chủ, tất cả tri kiến đều biến thành Phật tánh, giống như hai câu kinh “Kiến vô sở kiến tức chơn kiến, Tri vô sở tri tức chơn tri” vậy. Cách dụng công của ông nói chẳng trụ chẳng chấp trước, cái tâm muốn chẳng trụ chẳng chấp trước đó tức là trụ, là chấp trước rồi. Sau khi kiến tánh, trụ và chấp trước đều là Phật tánh, cho nên chấp trước và chẳng chấp trước chẳng dính dáng với sự thành Phật, ông nên dùng cái niệm chẳng trụ chẳng chấp trước ấy chuyên tâm nhìn thẳng đi, hễ công phu đến mức, liền thấy Phật tánh, lúc ấy mới thấu rõ tất cả tri kiến đều là Phật tánh.

    ***

    Cư sĩ hỏi: Con cảm thấy con người ở đời làm việc thiện chớ nên cầu phước báo, con làm việc thiện, chẳng có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, như thế phải Minh Tâm Kiến Tánh chăng?

    Sư nói: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Quên mất tâm Bồ Đề tu các pháp thiện ấy là nghiệp ma”. Ông làm việc thiện chẳng cầu phước báo đâu phải Minh Tâm Kiến Tánh! Làm việc thiện là bổn phận nên làm của con người, làm thiện thì được phước báo là chẳng lìa nhân quả, trong Phật tánh thì thiện với ác trọn bất khả đắc, phải thấy Phật tánh mới là Minh Tâm Kiến Tánh, ông chẳng cầu Minh Tâm Kiến Tánh mà chuyên làm việc thiện, đâu thể liễu thoát sanh tử! ông hãy dùng cái niệm làm việc thiện ấy hồi quang phản chiếu, ngay đó nhìn thẳng đi, khi thấy được bản thể Phật tánh mới là liễu thoát sanh tử.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ THỈNH ÍCH (Hỏi đạo)
    __________________________________________________ ______________________________________


    Cư sĩ hỏi: Con dụng công theo Kinh Niết Bàn nói: ‘Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt làm vui”. Lúc đang dụng công, cảm thấy vũ trụ vạn vật đều là sanh sanh diệt diệt, nếu đem tư tưởng dứt sạch, chẳng khởi một niệm thì tất cả đều chẳng sanh diệt, tức là tịch diệt làm vui, dụng công như thế hợp với pháp Thiền Tông chăng?

    Sư nói: “Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt” là nói người chưa Kiến Tánh, tất cả đều do kiến, văn, giác, tri làm chủ, Phật tánh bị vô minh che khuất, nên mới có sanh tử luân hồi. "Sanh diệt diệt rồi” là nói hầm sâu vô minh đã phá tan thì thấy Phật tánh. “Tịch diệt làm vui” là nói sau khi thấy Phật tánh, tất cả đều biến thành Phật tánh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng động chẳng tịnh. Theo cách dụng công của ông lúc thì sanh diệt, lúc thì tịch diệt, trở đi trở lại xoay chuyển chẳng ngừng, muôn kiếp chẳng thể Kiến Tánh. Ông chớ nên diệt niệm, vẫn khởi một chánh niệm (nghi tình) ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh phá tan, liền thấy tịch diệt của Phật tánh, mới biết Phật tánh vốn chẳng sanh chẳng diệt, như thế mới là phương pháp dụng công của Thiền Tông.

    ***

    Tăng hỏi: Con dụng công tu hồi quang phản chiếu, từ ý căn khởi niệm phản chiếu niệm, niệm niệm rõ ràng, vậy hợp với pháp tu của Thiền Tông chăng?

    Sư nói: Khởi niệm là kiến, văn, giác, tri khởi, hồi quang phản chiếu cũng là tác dụng của kiến, văn, giác, tri, ông dùng ý căn quán xét giác và mê, đều ở trong phạm vi kiến, văn, giác, tri. Phật tánh là như như bất động, giác và mê trọn chẳng dính dáng. Ông nên đem cái niệm hồi quang phản chiếu giác và mê ấy ngay đó nhìn thẳng chỗ đen tối mịt mù, khi hầm sâu vô minh phá tan, liền thấy Phật tánh, mới biết giác và mê trọn chẳng dính dáng.

    ***

    Tăng hỏi: Con dùng hai câu: Diệu hữu chơn không, chơn không diệu hữu” để dụng công; người Tiểu thừa lọt nơi hữu, Trung thừa lọt nơi không, con cho rằng Phật tánh nói là hữu cũng là không, không cũng là hữu, chẳng thể nói là không, cũng chẳng thể nói là hữu, tức là phi không phi hữu của Trung đạo, như thế hợp với lý của Thiền Tông chăng?

    Sư nói: Ông dụng công như thế muôn kiếp chẳng thể Kiến Tánh. Không với hữu là tác dụng kiến, văn, giác, tri của bộ não, cách ông nói là hai bên đều chẳng cứu cánh, giống như lý “mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tinh” của Lão Tử nói. Kỳ thật Phật tánh vốn là sẵn sàng, diệu hữu chơn không, chơn không diệu hữu đối với Phật tánh trọn chẳng dính dáng. Ông cho “không" và “hữu” tác dụng của kiến, văn, giác, tri là Phật tánh đó là sai, ông nên đem cái niệm hay nhận diệu hữu chơn không ấy ngay đó nhìn thẳng chỗ hầm sâu đen tối, khi hầm sâu vô minh phá tan thì tất cả đều là Phật tánh, còn nói chi “Diệu hữu chơn không” nữa!

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ THỈNH ÍCH (Hỏi đạo)
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tăng hỏi: Con theo cái lý “Tất cả Pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu được hiểu như thế, chư Phật thường hiện tiền" (trong Kinh Hoa Nghiêm) để dụng công. Con cho rằng vũ trụ vạn hữu đều có sanh có diệt, nếu đem tư tưởng dứt hết thì chẳng sanh chẳng diệt, tức là Phật tánh, dụng công như thế hợp lý Thiền tông chăng?

    Sư nói: Lời trong Kinh Hoa Nghiêm là lời của người đã ngộ, nếu ông được Kiến Tánh thì chư Phật với ta chẳng khác. Người xưa nói: “Chẳng những ta nay tự liễu đạt, Hằng sa chư Phật thể cùng đồng”. Ông dụng công như thế này là sai lầm. Ông nói tư tưởng dứt là Phật, tư tưởng khởi là chúng sanh, tức là Phật vẫn có luân hồi, sai lầm biết bao! Nay ông chớ nên dứt niệm, nên khởi một niệm hướng vào nguồn gốc chẳng sanh diệt ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh tan rã thì tất cả đều là Phật tánh, tức là chư Phật thường hiện tiền rồi.

    ***

    Tăng hỏi: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu được chuyển vật tức đồng Như Lai’, con cho rằng con người trong vũ trụ thảy đều bị chuyển, cho nên có sanh diệt luân hồi, sanh diệt là xuất phát từ vọng niệm, nếu chuyển được vọng niệm thì chuyển được vạn vật, vậy tức đồng Như Lai. Cách dụng công của con là đem một niệm sơ khởi luôn luôn tỉnh giác không cho nó mê muội, như thế hợp với tu hành của Thiền Tông chăng?

    Sư nói: “Nếu được chuyển vật tức đồng Như Lai” là lời của người đã ngộ, hễ ánh sáng của Phật tánh chiếu khắp thì thấy kiến, văn, giác, tri, ngũ uẩn, lục căn, thập nhị xứ, thập bát giới, nhị thập ngũ hữu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mỗi mỗi khởi tâm động niệm cho đến trần lao phiền não, núi sông đất đai, vũ trụ vạn vật, tất cả đều biến thành Phật tánh, nên Kinh nói: “Ngũ uẩn lục trần đều là chơn tâm diệu minh của Như Lai, núi sông, đất đai đều là chơn tâm diệu minh của Như lai”. Phật tánh mới có thể chuyển vạn vật, hễ được chuyển thì vĩnh viễn viên mãn, cái chuyển vật của ông là chuyển bằng bộ não, chuyển đi chuyển lại khi nào mới hết? Vậy làm sao Kiến Tánh được! Ông nên dùng cái niệm chuyển vạn vật ấy ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh phá tan thì thấy vạn vật với Như Lai chẳng hai chẳng khác”.

    ***

    Tăng hỏi: “Cái nhân của các khổ, do tham dục là gốc, nếu diệt hết tham dục, liền ra khỏi luân hồi" Con dụng công theo bốn câu này, nếu vọng tưởng dứt sạch thì chẳng có tham dục, liền được thoát khỏi cái khổ của luân hồi, dụng công như thế hợp với lý Thiền Tông chăng?”.

    Sư nói: Bốn câu này là pháp môn dụng công của Tiểu thừa, vì trong tâm người Tiểu thừa Phật tham dục quá nhiều, nên Phật bảo họ trừ tham dục trước, nhưng đó chỉ là Hóa Thành, chẳng phải Bửu Sở, ông chớ nổi niệm muốn dứt sạch vọng tưởng, nên đem cái niệm diệt tham dục ấy ngay đó nhìn thẳng đi, hễ hầm sâu vô minh tan rã, liền thấy ngay bản thể Phật tánh, mới biết Phật tánh vốn trong sạch chẳng có tham dục. Người hành đạo Bồ Tát mong chúng sanh thành Phật, ham muốn chúng sanh lìa biển khổ, ấy là tham dục chánh; ham danh ham lợi là cái tham dục bất chánh, sau khi Minh Tâm Kiến Tánh thì tham dục chánh là Phật tánh, tham dục bất chánh cũng là Phật tánh, Tiểu thừa và Đại thừa ở trong Phật pháp xê xích tơ hào thì cách xa ngàn dặm, ông nên theo phương pháp dụng công của Đại thừa mới có thể đến nơi Bửu Sở.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  4. #4
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ PHỤ LỤC
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHỤ LỤC

    NGUYỆT KHÊ PHÁP SƯ CAO NGỌA XỨ BI VĂN


    Sư húy Tâm Viên, hiệu Nguyệt Khê, họ Ngô, tổ tiên là người Tiền Đường, tỉnh Triết Giang, lập nghiệp ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, truyền được ba đời đến Sư, cha là Tử Trang, mẹ là Lục Thánh Đức, sanh được năm con, Sư là út. Sư yếu đuối nhưng thích học, sớm đã thông minh đĩnh ngộ, theo học Nho với Uông Duy Dần tiên sinh. Nam 12 tuổi đọc Lan Đình Tập Tự đến câu “Tử sanh diệc đại hĩ, khí bất thống tai”. (Tử sanh là việc lớn, há chẳng đau khổ ư!), bỗng nhiên có giải ngộ; mới hỏi thầy rằng: “Làm thế nào có thể chẳng sanh chẳng tử được?”. Uông tiên sinh bảo: Nhà Nho nói: “Chưa biết sanh làm sao biết tử, lời này phải hỏi nhà Phật học”.

    Bèn đến hỏi nhà Phật học, nhà Phật học bảo: “Nhục thể và linh tánh của kiến, văn, giác, tri đều ở trong lục đạo sanh tử luân hồi, Phật tánh thì như như bất động, bất sanh bất tử. Nếu chưa thấy Phật tánh thì Phật tánh luân hồi theo linh tánh của kiến, văn, giác, tri; nếu thấy Phật tánh tràn đầy hư không thì linh tánh của kiến, văn, giác, tri biến thành Phật tánh”.

    Sư hỏi: “Dùng cách nào mới thấy được Phật tánh? Nhà Phật học không đáp được, mới trao cho Sư các Kinh Bốn mươi hai Chương và Kinh Kim Cang. Từ đó nhân dịp theo học trường ở Thượng Hải, Sư kiêm thêm Phật học, cũng chuyên tâm nghiên cứu các sách của Lão Trang, xem hết Lục Kinh của nhà Nho, tham học khắp cách danh sư ở Giang Tô, Triết Giang, lễ bái các Đại Đức, trình câu của nhà Phật học bảo “Dùng cách nào mới có thể Minh Tâm Kiến Tánh" ra hỏi, nhưng các đáp án Sư đều chưa thỏa mãn.

    Bấy giờ Tôn túc Diệu Trí dạy hãy khán thoại đầu “Niệm Phật là ai?” Và nghiên cứu Đại Trí Độ Luận. Năm 19 tuổi, Sư quyết chí xuất gia xiển dương Chánh pháp, hồi nhỏ cha mẹ đã đính hôn cho Sư, Sư kiên quyết không lấy vợ. Vào năm ấy lễ Tỉnh An Hòa Thượng ở nơi đó xin xuống tóc thọ đại giới. Vừa xuất gia đã tinh tiến dũng mãnh, nơi Phật tiền đốt hai ngón tay út và áp út tay trái, cùng cắt miếng thịt nơi ngực to bằng bàn tay, trên đó đốt bốn mươi tám liều cúng dường Phật, phát ba đại nguyện:

    1.- Chẳng ham ăn ngon, mặc đẹp, siêng tu khổ hạnh, chẳng bao giờ lui sụt.

    2.- Tham duyệt khắp tất cả Kinh điển, khổ công tham cứu.

    3.- Đem hết sở đắc diễn giảng chỉ dạy để quảng lợi quần sanh.

    Mỗi ngày trừ việc xem Kinh ra Sư còn tụng Phật hiệu năm ngàn tiếng, luôn tụng Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Lăng Nghiêm. Lúc rảnh rỗi có khoá lễ bái Kinh Viên Giác, Sư Ông của Sư bảo rằng: “Tu như ngươi thì tại gia cũng được, cần gì phải xuất gia! Chẳng cần hiện Tăng tướng, cần phải chuyên tu pháp môn hướng thượng (Tổ Sư Thiền) mới là việc lớn bổn phận của người xuất gia”, rồi dạy khán thoại đầu “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” và trao cho Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục; Sư xem qua có cái biết có cái không. Sư rất thích Lâm Tế Ngữ Lục, nhưng cách dụng công như thế nào vãn còn chưa rõ. Sư về sau theo Ngộ Tham Pháp, Sư học giáo lý của các Tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  5. #5
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ PHỤ LỤC
    __________________________________________________ ______________________________________


    Năm 22 tuổi liền ra giảng Kinh thuyết Pháp, thính giả rất đông. Đáp lời mời của Pháp Hội Lăng Già ở Nam Kinh, Sư thị chúng rằng: “Chúng sanh bản lai là Phật, chỉ vì vọng niệm vô minh nên không liễu thoát sanh tử được, nếu phá được một phần vọng niệm vô minh thì được chứng một phần Pháp thân, vọng niệm vô minh phá hết thì Pháp thân hiển lộ”. Bấy giờ trong Pháp Hội có Tôn túc Khai Minh hỏi rằng: “Nếu vọng niệm vô minh từ ngoài đến, không có dính dáng gì với ông thì cần gì dứt nó? Nếu vọng niệm từ bên trong sanh ra, ví như nguồn suối luôn luôn có nước chảy ra, dứt rồi lại sanh, sanh rồi lại dứt, đến khi nào mới hết! Tu hành như thế thật chẳng có chỗ đúng! Vọng niệm dứt là Phật tánh, vọng niệm sanh khởi là chúng sanh, vậy thành Phật cũng có luân hồi ư?”. Sư không trả lời được, lại hỏi tiếp: “Pháp Sư chưa từng Minh Tâm Kiến Tánh, trong Kinh chẳng có những lời này, những lời này là có được từ các chú giải; người Kiến Tánh chú giải Kinh điển thì chẳng sai, người chưa Kiến Tánh chú giải Kinh điển nói Nam ra Bắc, lôi Đông bỏ Tây, thị phi điên đảo, có phải không?”. Sư đáp: “Phải”. Sư đảnh lễ Tôn túc và trình lời nhà Phật học nói về “Dùng cách nào mới có thể Minh Tâm Kiến Tánh?”, Tôn túc bảo: “Lời này Pháp Sư nên đến hỏi Tông Sư Thiết Nham ở Ngưu Đầu Sơn là người đã chứng ngộ”.

    Ngay đêm ấy Sư đến lễ hỏi Thiết Nham rằng: “Lão Hòa Thượng ở đây làm gì?”. Nham bảo: “Mặc áo ăn cơm, ngủ nghỉ, dạo núi, ngắm sông”. Sư nói: “Đáng tiếc cho sự uổng qua ngày tháng của Ngài!”. Nham nói: “Ta uổng qua thì được, nhưng ngươi không thể học ta uổng qua. Nếu ngươi đến được miếng điền địa kia thì cũng có thể học ta uổng qua vậy!”. Sư nói: “Thế nào là miếng điền địa kia?”. Nham dựng một ngón tay lên, Sư đáp lại: “Con không biết!”. Sư lại hỏi: “Hiện nay con đem vọng niệm dứt sạch, chẳng trụ hữu vô, vậy có phải là miếng điền địa kia không?”. Nham bảo: “không phải, đó là cảnh giới vô thỉ vô minh". Sư hỏi: “Lâm Tế Tổ Sư nói đó là hầm sâu đen tối của vô minh thật đáng sợ, có phải vậy không?”. Nham bảo: “Phải”. Sư trình câu nói của nhà Phật học về “Dùng cách nào mới có thể Minh Tâm kiến tánh được?". Nham bảo: “Ngươi chớ nên dứt vọng niệm, nên dùng nhãn căn nhìn thẳng vào chỗ hầm sâu đen tối chẳng trụ hữu vô ấy, đi, đứng, nằm, ngồi chẳng được gián đoạn, khi nhân duyên đến, “ồ” lên một tiếng, hầm sâu đen tối của vô minh tan rã thì được Minh Tâm Kiến Tánh".

    Sư nghe lời này như uống cam lồ, từ ấy ngày đêm khổ hạnh, hình dung tiều tụy, ốm như cây củi, một đêm nghe tiếng gió thổi lá cây ngô đồng thì thoát nhiên chứng ngộ, mồ hôi như tắm rằng: “ồ” là vậy! là vậy! Chẳng xanh chẳng trắng cũng chẳng tham thiền, cũng chẳng niệm Phật, cũng chẳng sanh tử đại sự, vô thường tấn tốc. Liền nói kệ rằng:

    Bản lai chẳng Phật chẳng chúng sanh,

    Thế giới chưa từng thấy một người,

    Thấu liễu cứu cánh là cái này,

    Tự tánh vẫn là tự mình sanh.


    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  6. #6
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ PHỤ LỤC
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nhìn ra ngoài cửa sổ chính là vào canh tư, trăng treo trên nền trời xanh tít không dợn chút mây. Mấy ngày sau Sư đến Thiết Nham nói: “Chẳng cầu pháp môn dụng công, chỉ cầu lão Hòa Thượng ấn chứng”. Thiết Nham đưa cây gậy lên ra thế đánh hỏi Sư rằng: “Tào Khê chưa gặp Hoàng Mai, ý chỉ như thế nào?”. Sư đáp: “Lão Hòa Thượng muốn đánh người". Thiết Nham lại hỏi: “Sau khi gặp ý chỉ như thế nào?”. Sư vẫn đáp rằng: “Lão Hòa Thượng muốn đánh người". Nham gật đầu. Sư đem sở ngộ trình Thiết Nham, Nham bảo: “Ngươi chứng ngộ rồi, nay ta ấn chứng cho, ngươi có thể đem Truyền Đăng Lục để ấn chứng thêm. Đại Sự nguơi đã xong, có nhân duyên thì thuyết pháp độ sanh, chẳng nhân duyên có thể tùy duyên qua ngày”. Sư bèn đem Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên và Kinh Hoa Nghiêm để ấn chúung, tất cả thấu rõ như nói chuyện việc nhà vậy, chẳng có việc lạ.

    Từ đó về sau Sư giảng Kinh thì theo trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thường giữ Phật tánh, không có biến đổi, chẳng nhiễm chẳng loạn, chẳng ngại chẳng chán, chẳng thọ huân nhiễm, chẳng khởi vọng niệm, vì vọng niệm sanh khởi từ linh tánh của kiến, văn, giác, tri, trừ bỏ vốn bệnh chỉ, tác, nhậm, diệt, chẳng dứt vọng niệm, dùng một niệm để phá tan vô thỉ vô minh “làm chủ yếu”.

    Sư giảng Kinh thuyết Pháp đều từ trong tự tánh nói ra, chẳng xem chú giải của người khác. Về sau thể theo lời mời của các tỉnh Trung Quốc cho đến Hương Cảng, Áo Môn; Sư đăng đàn thuyết pháp liên tiếp mấy chục năm, giảng Kinh hơn hai trăm năm mươi hội, cứ một Kinh là một hội.

    Tánh Sư siêu nhiên ngoại vật, hành cước các nơi như Chung Nam, Thái Bạch, Hương Sơn, Hoa Sơn, Nga Mi, Cửu Hoa, Phổ Đà, Ngũ Đài, Thái Sơn, Tung Sơn, Hoàng Sơn, Võ Đang, Lư Sơn, Mao Sơn, Mạc Can, Lao Sơn, Hằng Sơn, La Phù Sơn v.v... Mỗi khi hành cước nơi rừng sâu núi cao mấy tháng quên về, đến danh sơn nào cũng có thi đối. Sư giỏi đàn thất huyền, hành cước đều mang đàn theo, Sư tiết tháo cao cả, độ lượng rộng lượng, chẳng ứng thú theo thói đời, hình dáng sáng suốt hùng vĩ, đến bậc túc nho thông đạt cũng phục hạnh trang nghiêm đơn giản của Sư, trứ tác thi văn bày tỏ bản sắc siêu việt pháp thế gian.

    Sư lúc già đưa một ngón tay vì môn đồ thuyết pháp rằng: “Đến từ cùng khắp hư không đến, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca; đi từ cùng khắp hư không đi, Quan Thế Âm, Phật Di Đà. Chư Phật cổ kim đều ở trên đầu ngón tay của lão Tăng, chẳng đi chẳng đến; lão Tăng cũng ở trên đầu ngón tay, chẳng đi chẳng đến. Các ngươi nếu nhận được thì đó là chỗ an thân lập mạng của các ngươi!”.

    Thuyết kệ rằng:

    Giảng Kinh thuyết Pháp mấy mươi năm,

    Độ sanh, vô sanh muôn muôn ngàn,

    Đợi khi một ngày thế duyên hết,

    Đầy khắp hư không đại tự tại.


    Sư phó chúc đệ tử rằng: Tứ đại theo nhân duyên sanh, có sanh ắt có diệt; tự tánh vốn vô sanh, vô sanh cũng vô diệt. Nay nói có sanh ắt có diệt là tứ đại phải có chỗ về. Chỗ về chọn trên đỉnh Bảo Mã Sơn, sau làng Đỗ Gia Dinh, ngoài cửa Nam thành? Phố Côn Minh nhìn xuống, ngay hồ Côn Minh làm cao ngọa xứ”.

    Suốt đời Sư chưa độ một đệ tử xuất gia, đệ tử tại gia hơn một trăm sáu mươi ngàn người. Sư tùy theo căn cơ của đệ tử mà dạy tu pháp môn khác nhau, trong đó tham thiền ngộ đạo có tám người: Ngũ Đài Tịch Chơn, Minh Tịnh Tôn Túc, Cư sĩ Lý Quảng Quyền ở Bắc Bình, cư sĩ Chu Vận Pháp ở Thượng Hải, còn bốn người đã qua đời từ trước.

    Sư có trứ tác: Duy Ma Kinh Giảng Lục, Lăng Già Kinh Giảng Lục, Viên Giác Kinh Giảng Lục, Kim Cang Kinh Giảng Lục, Tâm Kinh Giảng Lục, Phật Giáo nhân sinh quan, Phật Pháp Vấn Đáp Lục, Đại Thừa Bát Tông Tu Pháp, Đại Thừa Tuyệt Đối Luận, Nguyệt Khê Ngũ Lục, Tham Thiền Tu Pháp, Niệm Phật Tu Pháp, Vĩnh Phong Đường Cầm Khóa.

    Ngày rằm tháng hai năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 60 (1971 CN).

    Đệ tử TRÍ VIÊN kính soạn và viết.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

  7. #7
    Ban Điều Hành Avatar của cunconmocoi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    863
    Thanks
    327
    Thanked 471 Times in 300 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    CHƯƠNG III _ Tiểu sử NGUYỆT KHÊ Pháp sư
    __________________________________________________ ______________________________________



    TIỂU TRUYỆN CỦA NGUYỆT KHÊ PHÁP SƯ

    Tác giả: Mục Sư VƯƠNG CẢNH KHÁNH


    Tôi với Nguyệt Khê Pháp Sư quen biết đã hơn ba mươi năm, cùng ở xứ Sa Điền Hồng Kông, lúc rãnh rỗi thường qua lại thăm nhau, mặc dù tín ngưỡng chẳng đồng, nhưng tâm của chúng tôi hình như có một linh tánh thông nhau, mỗi khi gặp nói chuyện, hai người đều cảm thấy rất khế hợp. Tôi rất thích Sư tánh tình ngay thẳng, tâm chẳng quanh co, tiếng nói hùng dũng, thành thật thiết tha, chẳng khách sáo, chẳng giả dối.

    Nhìn theo hình tướng bề ngoài Sư rất giống một kẻ ăn xin, mặc quần áo cũ và rách, chân chẳng giày vớ, mùa lạnh mùa nóng cũng thường mang một đôi dép cũ, cầm một cây gậy, một túi vải nhỏ, tóc dài xòe vai, còn để bộ râu thưa thớt, hình dáng là một khổ hạnh đầu đà, khi đi xe lửa hoặc xuống bắc qua biển, thường mua vé hạng chót, không khi nào vì mình mà lãng phí một đồng xu. Có người nói: “Sư chẳng phải không có tiền, Sư là một triệu phú !”, Sư phải triệu phú hay không, ở đây tạm gác qua một bên sau này sẽ bảo cho biết. Mỗi lần tôi gặp Sư trên xe lửa, mặc dù tôi đã mua vé hạng nhì, nhưng vẫn thích cùng ngồi ghế hạng chót với Sư để được nói chuyện với nhau. Bạn bè thường chê cười tôi rằng: “Ông không sợ bị lây con rệp của Sư kia chăng?”. Sở dĩ ông bạn này cười tôi, là vì ông ta chẳng nhận biết cái tâm của Nguyệt Khê Pháp Sư.

    Tôi đối với Nguyệt Khê Pháp Sư, chẳng phải nhìn theo hình tướng bề ngoài mà nhìn theo nội tâm của Sư. Nội tâm của Sư rất tốt đẹp, nhân sinh quan và tư tưởng của Sư rất là viên mãn, đủ cho người đời thưỏng thức. Sư mười chín tuổi xuất gia, suốt đời phụng sự Thiền Tông, đối với Phật Pháp có kiến giải mở mang sáng tỏ.

    Sư họ Ngô, là người Côn Minh tỉnh Vân Nam, căn cứ lời của Sư nói, lúc mười hai tuổi đọc Lan Đình Tập Tự đến câu “Sanh tử là việc lớn, há chẳng đau khổ thay!”. Từ đó bắt đầu suy nghĩ làm sao giải quyết việc lớn sanh tử. Đến tuổi mười chín theo Tịnh An Hòa Thượng xuống tóc, khi mới xuất gia, nhiệt tình hồ đồ, phát tâm trước tượng Phật đốt ngón út và ngón áp út bên tay trái, còn cắt ở trước ngực một miếng thịt lớn như bàn tay, lại đốt thêm bốn mươi liều ngay chỗ vết thương trên ngực để cúng dường Phật.

    Lúc 22 tuổi Sư bắt đầu giảng Kinh thuyết Pháp, Sư nói: “Chúng sanh bổn lai là Phật, chỉ vì vô minh vọng niệm nên sanh tử chẳng thể liễu thoát. Nếu phá được một phần vô minh vọng niệm thì được chứng đắc một phần Pháp thân, Khi vô minh vọng niệm phá sạch thì Pháp thân hiển lộ”. Lời này hiển nhiên là lối tu dùng công phu tiệm tiến như lời của Thần Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi chớ cho dính bụi trần”. Khi ấy có một thính giả là người lão tu hành, nghe xong lại hỏi Sư:

    _ “Nếu vô minh vọng niệm từ bên ngoài đến thì chẳng dính dáng với Sư, đâu cần đoạn dứt nó! Nếu vọng niệm từ bên trong ra thì giống như nguồn suối luôn luôn có nước ra, dứt rồi lại ra, ra rồi lại dứt đến khi nào mới hết! Sư nói 'vọng niệm dứt sạch là Phật tánh, vọng niệm khởi là chúng sanh', khi dứt khi khởi, vậy thì thành Phật cũng có luân hồi, tu hành như thế thật chẳng đúng”.

    Giả + Giả + 0 = Giả !
    Chân + Giả + . = Chân

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •