62. THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG (1046-1100)



Chùa Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan (1). Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.

Thuở nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách vở. Ðến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh lự, núi Ðông cứu (2) nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.

Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau (3). Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi ngày một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà tự phòng hộ, không rời khỏi núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.

Vua Lý Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu là tướng quốc Thân Công (4) càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.

Một lần, có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo mầu?"

Sư đáp: "Giác ngộ rồi mới biết"

Tăng hỏi thêm: "Ðối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?"

Sư đáp:

"Nếu đến nhà tiên trong động thẳm

Thuốc đan đổi cốt được đem về"(*)

Hỏi: "Thế nào là viên thuốc đan?"

Sư đáp:

"Nhiều kiếp ngu si không biết rõ

Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày"(**)

Hỏi: "Thế nào là tỏ bày?"

Sư đáp: "Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà

Tất cả chúng sinh cùng một nhà".(***)

Lại hỏi: "Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y (5). Cái nào là y?"

Sư đáp: "Lửa kiếp (6) lẫy lừng thiêu rụi hết

Núi xanh như cũ trắng mây bay".(****)

Lại hỏi: "Sắc thân tan rã rồi thì sao?"

Sư đáp: "Xuân đến xuân đi nghi xuân hết

Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân"(*****)

Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:

"Ðồng bằng sau cơn lửa

Cây cối mỗi tươi thơm"(******)

Tăng vái lạy.

Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo cảm. Ðến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:

"Trống vắng gốc mầu sáng rực ra

Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà

Người người thảy biết vô vi sướng

Nếu được vô vi mới phải nhà".
(*******)

Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:

"Ðạo tâm đã thành

Giáo ta đã hành

Ta theo biến hóa".

Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ, hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Ðại minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Ðoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:

"Triều đình thôn dã nức cao phong

Gậy chống như mây gặp hội rồng

Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy

Than dài rừng đạo, đọt tùng buông

Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới

Núi xanh soi nước thấy hình vương

Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ

Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn"


_________________

Chú thích :

(1)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: "Núi Phổ lại tại xã Phổ lại, huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục đầu, cảnh trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư Không lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm vịnh….". Xem thêm Ðại nam nhất thống chí tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại xã Phả lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.

Một khi đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất không thể giới hạn theo Cương mục chính biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì "Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Ðường hào, tỉnh Hải dương". Ðất của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Ðường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là huyện Chí linh nữa.

(2)
Ðại Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng chùa Tĩnh lự ở núi Ðông cứu". Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 6a1 viết: "Núi Ðông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy…". Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi làm huyện Gia bình, nên Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5 dặm, một ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Ðông cứu một tên là núi Ðông cao".

Vị sư Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết một tí gì.

(3)
Qui mộc tương giao. Ðiển rút từ kinh Tạp a hàm: "Trong biển lớn có một con rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay". Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết bàn: "Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên khúc cây". Xem Ðại bát niết bàn kinh 2.

(4)
Tức phải chỉ Thân Ðạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Ðại Việt sử lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066 thì chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075.

(5) Thiền sư Ðộng Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo, bèn làm bài thơ:

"Thiết kỵ tùng tha mích

Thiều thiều dữ ngã cư

Ngã kim độc tự vãng

Xứ xứ phùng đắc cừ".


(Rất kỵ tìm nơi khác

Cùng ta nó luôn đi

Ta nay riêng tự đến

Nơi nơi đều gặp y)


Xem Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm "nơi nơi đều gặp y" là rút từ bài thơ vừa dẫn.

(6)
Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền tôn mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế này: "Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại, cái gì không hoại?". Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18.



--------------------

Chú thích của hungcom :


(*)

Nhược đáo tiên gia thâm động nội
Hoàn đan hoán cốt đắc hoài qui


(Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Thuốc đan thay cốt được mang về)



(**)

Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc khai minh


(Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc khai minh)



(***)

Khai minh chiếu triệt sa hà giới
Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia.


(Khai minh chiếu khắp cõi ta bà
Hết thảy chúng sinh đều một nhà.)



(****)

Kiếp hỏa động nhiên hào mạt tận
Thanh sơn y cựu bạch vân phi


(Lửa kiếp lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay)



(*****)

Xuân lai, Xuân khứ, nghi Xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị Xuân


Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết
Hoa nở, hoa tàn, ấy vẫn xuân.



(******)

Bình nguyên kinh hỏa hậu
Thực vật các thủ phương.


(Đất bằng sau cơn lửa
Cây cối đượm hương thơm.)



(*******)


妙本虛無日日誇,
和風吹起遍沙婆。
人人盡識無為樂,
若得無為始是家。


Diệu bản hư vô nhật nhật khoa,
Hoà phong xuy khởi biến sa bà.
Nhân nhân tận thức vô vi lạc,
Nhược đắc vô vi thuỷ thị gia.