III THI HỌA.
Những năm đầu trong chùa làm thiền sinh, Sư được học văn chương nghệ thuật. Cộng thêm những chuyến hành hương sau này khiến Huệ Hạc có kiến thức uyên bác về thi ca Trung Hoa, nhất là đối với Lý Bạch, Đỗ Phủ, và sau này sư đã trở thành bậc thầy về thư họa trong cách viết chữ thảo - một sự tổng hợp giữa Hán tự và âm tự Nhật.
Trong làng Hinoki tỉnh Mino (Mỹ Nùng) có một thiền sư thi nhân già tên là Mã Ông (Ba-ō). Huệ Hạc là một trong số 12 học tăng đến đó vào mùa xuân năm 1704. Chùa Thụy Vân của Mã Ông quá nghèo nên học tăng phải tự lo liệu gạo ăn, củi đốt. Y như tên Mã Ông có nghĩa là ngựa hoang, Mã Ông la mắng đệ tử không tiếc lời. Chẳng bao lâu 11 người bỏ đi, một mình Huệ Hạc ở lại. Mã Ông thường đi đến thị trấn Ōgaki gần bên. Thừa cơ hội vắng thầy, Huệ Hạc đọc và làm thơ chữ Hán lúc rảnh rỗi.
IV KHẮC KHOẢI - QUYẾT TÂM TU HÀNH.
Tuy thư họa rất giỏi, nhưng Sư vẫn băn khoăn, cho dù trở thành thi bá hay thi thánh như Lý Bạch, Đỗ Phủ thì làm sao tránh khỏi Địa ngục? Một hôm lên nhà trên thấy sách vở chất đầy trên giá, sư cầu nguyện chư Phật mười phương cùng Long Thần Hộ pháp gia bị chỉ cho con đường nên theo đến hết đời, rồi nhắm mắt lấy đại một quyển Kinh. Đó là quyển Thiền Quan Sách Tấn thuộc thế kỷ XVII do ngài Vân Thê - Châu Hoằng ghi chép ngữ lục và những giai thoại về công phu hành trì miên mật của chư Thiền đức. Niềm tin mãnh liệt, sư nâng quyển Kinh ngang trán, không cần nhìn, lật sách ra trúng ngay chương nói về một Thiền sư đời Tống là Từ Minh Sở Viên ở Thạch Sương tọa thiền suốt đêm ngoài trời lạnh. Vì muốn chống lại ma ngủ, Từ Minh đã lấy dùi đâm vào đùi (dẫn châm tự thích). Sư cảm kích tấm gương tha thiết cầu đạo của tiền nhân nên từ đó quyết tâm không ngừng nỗ lực tu học. Vài tháng sau, hay tin mẹ qua đời, sư làm kệ dâng lên mẹ nhưng vẫn không rời làng Hinoki.