KINH LĂNG GIÀDịch giả: H.t Thích Duy Lực__________________________________________________ ______________________________________
QUYỂN BỐN
PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
........
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Quán sát chư Đạo sư,
Cũng như cát sông Hằng.
Chẳng hoại chẳng khứ lai,
Cũng chẳng có cứu cánh.
Ấy tức là bình đẳng,
Quán sát chư Như Lai.
Cũng như cát sông Hằng,
Thảy lìa tất cả lỗi.
Tùy lưu mà tánh thường,
Ấy là chánh giác Phật.
Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng sát na hoại của tất cả các pháp. Thế Tôn! Thế nào là tướng SÁT NA của tất cả các pháp?
Phật bảo Đại Huệ :
Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
– Đại Huệ! Nói TẤT CẢ PHÁP là những pháp thiện, bất thiện, vô ký, hữu vi vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, vô tội, hữu lậu vô lậu, thọ bất thọ v.v… Đại Huệ! Lược thuyết tâm, ý, ý thức và tập khí, là nhân của năm thứ thọ ấm, cũng là tập khí của tâm, ý, ý thức nuôi dưỡng phàm phu sanh vọng tưởng thiện và bất thiện.
– Đại Huệ! Người tu Tam muội, Tam muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ, gọi là Thánh Hiền, thuộc về pháp thiện vô lậu. Đại Huệ! Nói THIỆN, BẤT THIỆN có tám thứ thức. Thế nào là tám? Ấy là Như Lai Tạng, gọi là thức tạng, tâm, ý, ý thức và Tiền Ngũ Thức, chẳng phải như ngoại đạo sở thuyết.
– Đại Huệ! Tiền ngũ thức và tâm, ý, ý thức đều hay phân biệt cảnh trần, tướng thiện hay bất thiện; hễ tâm động thì duyên khởi, duyên hội thì tâm sanh, lần lượt chuyển biến, Tiền Ngũ Thức chuyển biến theo thức thứ sáu thì có phân biệt thiện ác, chuyển biến theo thức thứ bảy thì có tánh chấp trước, chuyển biến theo thức thứ tám thì có chủng tử. Bảy thức trước tương tục thì có hoại, thức thứ tám lưu chú thì chẳng hoại. Nhưng thức thứ tám cùng bảy thức kia thể chẳng có khác, nên bảy thức kia sanh diệt thì thức thứ tám cũng phải theo đó hoặc sanh hoặc diệt. Vì chẳng biết cảnh trần do tự tâm hiện, vốn chưa từng sanh diệt mà chúng sanh thấy cảnh giới hư vọng, sanh tưởng chấp lấy, nên theo thứ lớp diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, thấy hình tướng sai biệt là do ý thức nhiếp thọ, cùng Tiền Ngũ Thức tương ưng, sanh thời gian sát na chẳng trụ, gọi là Sát Na.
– Đại Huệ! Nói SÁT NA là Tạng Thức trong Như Lai Tạng, đồng sanh tập khí ý thức sát na, tập khí vô lậu thì chẳng phải sát na, sát na này chẳng phải phàm phu có thể biết. Ngoại đạo chấp trước sát na luận, chẳng biết tất cả pháp sát na là phi sát na, chấp đoạn kiến phá hoại pháp Vô Vi. Đại Huệ! Nhị Thừa đã dứt phiền não chướng nên thức thứ bảy chẳng lưu chuyển, chẳng thọ khổ vui mà chẳng phải cái nhân của Niết Bàn. Đại Huệ! Nói Như Lai Tạng là có thọ sự khổ vui, cùng với nhân kia hoặc sanh hoặc diệt, ngoại đạo say đắm rượu của Tứ Trụ Địa Vô Minh (1), phàm phu chẳng biết là do vọng tưởng huân tập nơi tâm, nên thấy có sát na.
(1) TỨ TRỤ ĐỊA VÔ MINH : Dục ái, sắc ái, hữu ái và kiến ái vô minh.
– Lại nữa, Đại Huệ! Như vàng ròng, kim cương, Xá lợi của Phật có tánh đặc biệt, trọn chẳng thể hoại. Đại Huệ! Người chứng Tự Giác Thánh Trí, đắc chánh pháp Vô Gián chẳng có tướng sát na sanh diệt. Nếu có sát na thì bậc Thánh chẳng phải Thánh, mà bậc Thánh luôn luôn là Thánh, như vàng ròng kim cương, dù trải qua vô số kiếp mà chất lượng chẳng giảm. Bởi phàm phu chẳng khéo hiểu pháp thuyết vi diệu ẩn mật của Ta, đối với tất cả pháp trong và ngoài tưởng có sát na sanh diệt.
Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Như Thế Tôn nói “Sáu Ba La Mật đầy đủ thì được thành Chánh Giác”. Thế nào là sáu?
Phật bảo Đại Huệ :
– Ba La Mật chia làm ba loại là : Thế gian, xuất thế gian và siêu việt xuất thế gian. Đại Huệ! Nói THẾ GIAN BA LA MẬT là chấp trước ngã và ngã sở, nhiếp thọ nhị biên, là chỗ đủ thứ thọ sanh, ham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đầy đủ Bố Thí Ba La Mật và trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ cũng như thế. Phàm phu do đó đắc thần thông và sanh cõi Trời Phạm Thiên.
– Đại Huệ! Nói XUẤT THẾ GIAN BA LA MậT, là vì Thanh Văn, Duyên Giác đọa nơi nhiếp thọ Niết Bàn, dù hành sáu Ba La Mật mà ham trụ sự vui nơi Niết Bàn của chính mình.
– Nói SIÊU VIỆT XUấT THế GIAN BA LA MẬT, là giác được vọng tưởng nhiếp thọ nơi tự tâm hiện và biết tự tâm bất nhị, nên chẳng sanh vọng tưởng, đối với sự nhiếp thọ của các loài đều chẳng có phần. Chẳng chấp trước sắc tướng của tự tâm, nhưng vì khiến tất cả chúng sanh được an lạc mà tùy duyên giáo hóa, gọi là Bố Thí Ba La Mật. Tạo phương tiện khéo léo, tùy duyên giữ giới thì vọng tưởng chẳng sanh, là Trì Giới Ba La mật. Ngay nơi bị nhục mà vọng tưởng chẳng sanh, biết năng nhiếp sở nhiếp đều chẳng thật, là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Ngày đêm tinh tấn, siêng năng tu hành, tùy thuận phương tiện mà vọng tưởng chẳng sanh, là Tinh Tấn Ba la Mật. Vọng tưởng dứt sạch, chẳng trụ Niết Bàn của Thanh Văn, là Thiền Định Ba la Mật. Trí huệ quán sát tự tâm vọng tưởng phi tánh, chẳng đọa kiến chấp nhị biên, chuyển thân này thù thắng hơn trước mà chẳng đoạn dứt, đắc Tự Giác Thánh Trí, là Bát Nhã Ba la Mật.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Tánh KHÔNG chẳng sát na,
Phàm phu vọng chấp có.
Như dòng sông, tim đèn,
Và chủng tử nẩy mầm.
Dời đổi rất nhanh chóng,
Đều do hành ấm chuyển.
Nghĩa sát na Ta thuyết,
Tịch tịnh lìa sở tác.
Sát na dứt phiền não,
Tất cả pháp chẳng sanh.
Có sanh thì có diệt,
Chẳng có kẻ ngu thuyết.
Tánh tương tục chẳng dừng,
Do vọng tưởng huân tập.
Bởi vô minh làm nhân,
Vọng tâm từ đó sanh.
Khi sắc tướng chưa sanh,
Có gì để phân biệt?
Thấy sanh diệt tương tục,
Theo đó chấp tâm khởi.
Nếu chẳng trụ nơi Sắc,
Theo duyên gì để sanh?
Sanh từ vật khác sanh,
Thì nhân sanh chẳng thật.
Chẳng thật thì chẳng thành,
Sao có sát na hoại?
Người tu hành chánh định,
Như kim cương, xá lợi.
Việc đời còn chẳng hoại,
Huống là đắc chánh pháp!
Như Lai cụ túc trí,
Cùng Tỳ Kheo bình đẳng.
Sao còn thấy sát na?
Tất cả cảnh huyễn hóa,
Sắc tướng chẳng sát na,
Nơi sắc tướng chẳng thật,
Xem cho là chơn thật.