KINH LĂNG GIÀ Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
__________________________________________________ ______________________________________
QUYỂN THỨ BA
PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
........
– Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của Ngoại đạo.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Niết Bàn của ngoại đạo,
Mỗi mỗi sanh vọng tưởng.
Vọng tưởng từ tâm khởi,
Chẳng cách nào giải thoát.
Không dây mà tự trói,
Xa lìa phương tiện khéo.
Dù tưởng là giải thoát,
Thật chẳng thể giải thoát.
Tướng thông của ngoại đạo,
Nhiều loại trí khác nhau.
Vì ngu si vọng tưởng,
Giải thoát chẳng có phần.
Tất cả ngoại đạo kia,
Vọng thấy tác, sở tác.
Chấp hữu, vô lập luận,
Thảy đều chẳng giải thoát.
Phàm phu ham vọng tưởng,
Chẳng nghe pháp chơn thật.
Chơn thật diệt nhân khổ,
Tam giới gồm ba khổ :
Khổ khổ và hoại khổ,
Hành tam ác đạo khổ.
Ví như tượng trong gương,
Dù hiện mà chẳng thật.
Vọng tưởng nơi tâm gương,
Phàm phu sanh nhị kiến.
Chẳng biết tâm và duyên,
Sanh vọng tưởng nhị biên.
Liễu tâm và cảnh giới,
Thì vọng tưởng chẳng sanh.
Tâm thể tức vạn pháp,
Sự hiện mà chẳng hiện.
Xa lìa tướng sở tướng
Như phàm phu phân biệt.
Vọng tưởng sanh tam giới,
Vọng hiện đủ thứ tướng.
Đều chẳng có nghĩa thật,
Mà kẻ ngu chẳng biết.
Chư kinh nói vọng tưởng,
Chẳng ra ngoài giả danh.
Nếu lìa nơi ngôn thuyết,
Phật nói Vô Sở thuyết.