DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 86
  1. #1
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........



    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ Tát khéo hiểu tất cả phương tiện khéo léo, chẳng đọa nghĩa sở thuyết của ngoại đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng ngôn thuyết văn tự dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng đại chúng hiện sức tự tại thần thông, Tổng trì Pháp ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi giác huệ, khéo dùng Thập Vô Tận Cú, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhựt nguyệt, châu Ma Ni và tứ đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào địa vị Phật nơi tất cả cõi chúng sanh, tùy cơ thích ứng mà thuyết pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sanh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v.. Chuyển tướng Sở Y thành thân Tối Thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của ngoại đạo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Tà sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa sở thuyết chấp trước tương tục của ngoại đạo, ấy là : Tướng chấp trước tương tục, Duyên chấp trước tương tục, Tánh Phi Tánh chấp trước tương tục, vọng tưởng Sanh Bất Sanh chấp trước tương tục, vọng tưởng Diệt Bất Diệt chấp trước tương tục, vọng tưởng Thừa Phi Thừa chấp trước tương tục, vọng tưởng Hữu Vi, Vô Vi chấp trước tương tục, vọng tưởng Địa Địa Tự Tướng chấp trước tương tục, vọng tưởng Tự Vô Gián chấp trước tương tục, vọng tưởng Y Pháp Hữu Vô của ngoại đạo chấp trước tương tục, vọng tưởng Tam Thừa, Nhất Thừa Vô Gián chấp trước tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Đây là những chúng sanh ngu si tự sanh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch tịnh thì vọng tưởng chẳng sanh, nên Đại Bồ Tát phải quán tất cả pháp tịch tịnh.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Giác được ngoài tánh phi tánh thì tướng tự tâm hiện lượng chẳng có, thuận theo sự quán sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều vô tướng. Vì tương tục tịch tịnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng Tương tục và bất Tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng đọa tri kiến có không thật không như thật ỏỏ cho là có trói có mở. Tại sao? Vì tất cả pháp hữu và vô đều bất khả đắc. Nếu thấy có tất cả pháp để Không là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sanh để độ thì chưa thể quên nơi chúng sanh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng th gọi là cảnh giới chơn như thật tế.

    – Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để Không tức là nơi pháp mà lìa pháp; độ tất cả chúng sanh chẳng thấy có tất cả chúng sanh để độ, tức là nơi chúng sanh mà lìa chúng sanh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sanh đều bất khả đắc vậy.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  2. #2
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........


    – Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là : Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sanh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sanh tương tục luân hồi trong lục đạo. Đại Huệ! Nếu tương tục đoạn dứt thì chẳng có tương tục và bất tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Chấp trước ba duyên hòa hợp (1) làm phương tiện thì sanh thức ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợp và thức ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sanh.

    (1) BA DUYÊN HÒA HƠP : Tức là căn, cảnh, thức. Căn là lục căn, cảnh là lục trần. Thức là lục thức. Tất cả pháp đều do ba thứ nhân duyên này hòa hợp sanh khởi.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Vọng tưởng chẳng chơn thật,

    Nói là tướng tương tục.

    Nếu liễu tri chơn thật,

    Thì lưới tương tục dứt.

    Vì chúng sanh vô tri,

    Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ.

    Ví như con tằm kia,

    Nhả tơ để tự trói.

    Vọng trói của phàm phu,

    Tương tục cũng như thế.


    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Như Thế Tôn sở thuyết, vì chấp trước mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Thế Tôn! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng tự tánh. Há chẳng phải Thế Tôn nói “Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết Bàn thảy đều vô tánh ư?”. Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi các pháp đoạn diệt ư? Tại sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉ là tự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt ư?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Đúng thế, đúng thế! Như ngươi sở thuyết, Đại Huệ! Như Thánh Trí có tánh của tự tánh là : Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn, như thế, tánh của tự tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chơn thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của tự tánh vậy.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  3. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoangtri (03-19-2022)

  4. #3
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãn và Nhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

    – Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướng là cảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới tự sở hành của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướng là cảnh giới, do cảnh giới của phàm phu mà tự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhất là Vô Tướng, Bản thể của Vô Tướng là Pháp Thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là HỮU, chẳng nói vô nhân mà gọi là VÔ, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh “chẳng đọa nơi hữu và vô” như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.

    – Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao như thật mà biết vọng tưởng? Thế Tôn! Tướng vọng tưởng và tướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởng và tướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trước có cảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp KHÔNG tịch tịnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh Trí tự tánh?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp KHÔNG phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh Trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh Trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp KHÔNG thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp KHÔNG như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do sự tâm hiện đắc tâm giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của tự tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chẳng nên lập “TẤT CẢ PHÁP BẤT SANH” làm tông. Tại Sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói “Lập tông phải hoại” là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô sanh chẳng hoại, nên “Tất cả pháp chẳng th lập tông thì hoại”. Đại Huệ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ! Gỉa sử tông kia chẳng sanh, đem “tất cả tánh chẳng sanh” mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, dó đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp không có tự tánh thì chẳng nên lập tông.

    – Đại Huệ! Nhưng Đại Bồ Tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại thừa.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng :

    Vô thuyết vô tự tánh,

    Vô sự vô tương tục.

    Phàm phu vọng chấp thật,

    Như xác chết có giác.

    Tất cả pháp bất sanh,

    Chẳng như tông ngoại đạo.

    Các pháp vốn Vô Sanh,

    Do nhân duyên thành tựu.

    Tất cả pháp bất sanh,

    Bậc trí chẳng phân biệt.

    Việc do lập tông sanh,

    Kẻ giác phải diệt trừ.

    Ví như mắt bệnh nhặm,

    Vọng thấy tướng hoa đốm.

    Tánh chấp trước cũng thế,

    Do phàm phu vọng tưởng.

    Phân biệt hiện tam giới,

    Sự Tự Tánh chẳng có,

    Mà lập sự tự tánh,

    Vì tư duy khởi vọng,

    Tùy sự lập ngôn giáo,

    Vọng tưởng rất lăng tăng.

    Phật tử hãy siêu thoát,

    Xa lìa các vọng tưởng.

    Phi nước tưởng là nước,

    Do khát nước vọng sanh.

    Phàm phu mê như thế,

    Bậc Thánh chẳng thấy vậy.

    Bậc Thánh thấy trong sạch,

    Chánh định tam giải thoát.

    Xa lìa nơi sanh diệt,

    Dạo đi cõi Vô Sanh.

    Tu hành vô sở tu,

    Cũng chẳng tánh phi tánh.

    Tánh phi tánh bình đẳng,

    Do đó sanh Thánh quả.

    Thế nào tánh phi tánh?

    Thế nào pháp bình đẳng?

    Tâm tri tâm bất tri,

    Trong ngoài và động tịnh.

    Nếu người được đoạn dứt,

    Ắt thấy tâm bình đẳng.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  5. #4
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Đại Huệ lại bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết “Phân biệt bất sanh”, ấy gọi là Trí. Vậy cái tên TRÍ này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Thế Tôn! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí ư?

    – Thế Tôn! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, nên nói VÔ TRÍ, vì có sự “chẳng đắc” vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn! Do có nhĩ diệm ( mẹ của trí ) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự “Có Trí” bất khả đắc vậy.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ngươi nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà “SỰ” chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi “nhĩ diệm” chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu Ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Chẳng trụ sự phan duyên,

    Và trí huệ quán sát,

    Vô trí tức Chánh Trí,

    Vọng cho là phi trí.

    Nơi tánh tướng chẳng khác,

    Nếu chấp theo quán sát,

    Những chướng ngại xa gần,

    Ấy gọi là tà trí.

    Do lục căn chẳng đủ,

    Nói trí huệ chẳng sanh.

    Thật thì có nhĩ diệm,

    Ấy cũng gọi tà trí.


    – Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu ngu si chẳng khéo liễu tri, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư ngụy từ vô thỉ xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến Tự Tông Thông và Thuyết Thông, nên chấp cái thuyết phương tiện, mà chẳng khéo phân biệt tứ cú của Tự Tông và Tướng Thông trong sạch.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Đúng như Phật dạy, cúi xin Thế Tôn vì chúng con phân biệt Thuyết Thông và Tông Thông, khiến con và các Đại Bồ Tát thấu rõ hai thứ thông, cũng khiến phàm phu, Thanh Văn và Duyên Giác đời vị lai chẳng mắc lỗi lầm.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Tam thế Như Lai có hai thứ pháp thông, là Thuyết Thông và Tự Tông Thông. Nói THUYẾT THÔNG, là tùy sự thích ứng của tâm chúng sanh mà thuyết mỗi mỗi pháp ghi đủ trong khế kinh (Khế lý khế cơ), gọi là Thuyết Thông. Nói TỰ TÔNG THÔNG, là nói người tu hành lìa mỗi mỗi vọng tưởng do tự tâm hiện, chẳng đọa kiến chấp nhị biên nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, siêu thoát, tất cả tâm, ý, ý thức.
    Đối với cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, lìa kiến chấp nhân duyên và kiến chấp tương ưng do công hạnh tạo tác mà thành. Tất cả ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, người đọa nhị biên đều chẳng thể biết, ta gọi là pháp Tự Tông Thông. Đại Huệ! Tướng Tự Tông Thông và Thuyết Thông này, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  6. #5
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Ta nói hai thứ thông,

    Tông thông và Thuyết thông.

    Thuyết thông dạy sơ cơ,

    Tông thông là giải thoát.


    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn có khi nói rằng : “Đối với mỗi mỗi lập luận của thế gian chớ nên gần gũi học tập. Nếu gần gũi học tập là nhiếp thọ tham dục, chẳng Nhiếp Thọ pháp”. Tại sao Thế Tôn nói như thế?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Mỗi mỗi nghĩa cú ngôn luận của thế gian nhân duyên tích tập, những nhân duyên thí dụ giống như trang nghiêm để dụ dẫn dối gạt những phàm phu ngu si, chẳng thể vào chơn thật Tự Thông, chẳng biết tất cả pháp vọng tưởng điên đảo. Phàm phu mê hoặc, đọa nơi tà kiến nhị biên, tự phá hoại chánh kiến chánh pháp, luân hồi lục đạo, chẳng thể giải thoát. Do vọng tưởng chấp trước, chẳng thể giác được tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoài tánh của tự tánh. Do đó, mỗi mỗi lập luận của thế gian chẳng thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, dối gạt và mê hoặc.


    – Đại Huệ! Xưa kia Thích Đề Hoàn Nhân rộng hiểu các luận, tự tạo Thanh Luận. Bọn Thế Luận kia có một người đệ tử hiện hình tượng rồng, đến Thiên cung Đế Thích kiến lập tông chỉ Thế Luận, và hẹn nhau với Thích Đế Hoàn Nhân rằng : “Nay ta cùng ngươi biện luận, nếu ta thắng thì ta sẽ hoại bánh xe ngàn căm của ngươi, nếu ngươi thắng thì sẽ chém đầu ta để tạ lỗi cho ngươi”. Hẹn xong bèn dùng Thế Pháp lật đổ Thanh Luận của Đế Thích, liền phá hủy bánh xe rồi trở về thế gian. Đại Huệ! Như con rồng là Súc sinh cũng có thể dùng mỗi mỗi nghĩa cú, ngôn luận thế gian, nhân duyên thí dụ trang nghiêm để mê hoặc chư Thiên và A Tu La, khiến dính mắc kiến chấp sanh diệt, huống là loài người ư! Do đó, ngôn luận thế gian cần nên xa lìa, vì hay làm nhân sanh quả khổ, chớ nên gần gũi học tập.

    – Đại Huệ! Bọn Thế Luận chỉ nói cảnh giới thân giác mà thôi. Đại Huệ! Có trăm ngàn Thế Luận kia, sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, sẽ phá hoại sự kết tập Kinh điển, do ác giác họ thịnh hành nơi thế gian, có nhiều ác đệ tử ham thọ pháp họ. Đại Huệ! Họ dùng đủ thứ nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm để thuyết việc ngoại đạo dùng Thế Luận để phá hoại sự kết tập Kinh điển, vì tự chấp nhân duyên, chẳng có Tự Thông. Đại Huệ! Bọn Ngoại đạo kia chẳng có Tự Thông Luận, lập ra Thế Luận, rộng thuyết vô lượng trăm ngàn sự môn, chẳng thể Tự Thông, cũng chẳng tự biết ngu si, chấp Thế Luận là Chơn lý.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  7. #6
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Nếu ngoại đạo sở thuyết mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm của Thế Luận, do tự chấp trước, chẳng có tự thông. Thì Thế Tôn cũng thuyết thế luận vì mỗi mỗi Trời, Người, và A Tu La từ các phương đến tụ hội, Phật cũng rộng thuyết vô lượng nghĩa cú, há cũng chẳng phải không có tự thông ư! Há cũng lọt vào số ngôn thuyết trí huệ của tất cả ngoại đạo ư?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Ta chẳng thuyết Thế Luận, chẳng thuyết khứ lai, chỉ thuyết bất khứ bất lai. Đại Huệ! LAI là tụ họp, KHỨ là tan rã, CHẲNG KHỨ CHẲNG LAI là bất sanh bất diệt. Cái nghĩa của Ta thuyết chẳng đọa nơi số vọng tưởng của Thế Luận. Tại sao? Vì chẳng chấp trước ngoài tánh phi tánh, vọng tưởng nhị biên nơi tự tâm hiện chẳng thể xoay chuyển, là cảnh tướng phi tánh. Giác được tự tâm hiện thì vọng tưởng của tự tâm hiện chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì vào ba cửa giải thoát : KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, gọi là giải thoát.

    – Đại Huệ! Ta nhớ xưa kia cư trú một nơi, có Thế Luận Bà La Môn đến chổ Ta ở, chẳng màng đến Ta có rảnh hay không, bèn hỏi Ta rằng :”Cù Đàm! Tất cả pháp là sở tác ư?” Ta đáp ngay rằng : “Bà La Môn! Nói tất cả pháp sở tác là thuộc về Thế Luận thứ nhất”. Họ lại hỏi : “Tất cả pháp là phi sở tác ư?” Ta cũng đáp rằng : “Tất cả pháp phi sở tác thuộc Thế Luận thứ hai”. Họ hỏi tiếp : “Tất cả pháp thường ư? Tất cả pháp vô thường ư? Tất cả pháp sanh ư? Tất cả pháp bất sanh ư?” Ta liền đáp : “Ấy là Thế Luận từ thứ ba đến thứ sáu.”

    – Đại Huệ! Họ lại hỏi rằng : “Tất cả pháp là nhất ư? Tất cả pháp là dị ư? Tất cả pháp đồng ư? Tất cả pháp chẳng đồng ư? Tất cả pháp do mỗi mỗi thọ sanh mà hiện ư?”. Ta trọn đáp rằng : “Ấy là Thế Luận từ thứ bảy đến thứ mười một”. Đại Huệ! Họ lại hỏi : “Tất cả pháp vô ký ư? Tất cả là ký ư? Hữu ngã ư? Vô ngã ư? Có đời này ư? Chẳng đời này ư? Có đời khác ư? Chẳng đời khác ư? Có giải thoát ư? Không giải thoát ư? Tất cả là sát na ư? Tất cả chẳng là sát na ư? Là hư không ư? Là chẳng phải số diệt ư? Là Niết Bàn ư? Là do Cù Đàm tác ư? Chẳng phải tác ư? Có thân trung ấm ư? Chẳng thân trung ấm ư?” Đại Huệ! Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Những câu hỏi như thế đều là Thế Luận của ngươi, chẳng phải sở thuyết của Ta. Ta chỉ thuyết mỗi mỗi ác nghiệp tập khí vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ là nhân của tam giới, những người chẳng thể giác tri tự tâm hiện lượng mà sanh vọng tưởng phan duyên ngoài tự tánh, như pháp của ngoại đạo nói : Do ngã và căn, cảnh ba duyên hoà hợp mà có cái biết sanh khởi. Ta thì chẳng như thế. Bà La Môn! Ta chẳng thuyết Nhân, chẳng thuyết Vô Nhân, chỉ thuyết cái tánh vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp giả lập pháp duyên khởi, chẳng phải ngươi và những người chấp ngã tương tục có thể biết được.”

    – Đại Huệ! Nói NIẾT BÀN, HƯ KHÔNG, và TỊCH DIỆT chẳng phải có ba thứ, chỉ là số lượng có ba mà thôi.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng : “Do si ái nghiệp làm nhân mà có tam giới ư? Hay là vô nhân ư?” Ta đáp rằng : “Hai thứ này cũng là Thế Luận thôi”. Họ lại hỏi : “Tất cả tánh đều vào tự tướng cộng tướng ư? ” Ta lại đáp : “Đây là Thế Luận. Bà La Môn! Nói tóm lại, từ những câu hỏi của ngươi cho đến dòng suối ý thức vọng chấp ngoại trần, tất cả đều là Thế Luận.”

    – Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng : “Mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm là tông chỉ của tất cả ngoại đạo, đều thuộc Thế Luận, vậy còn có pháp nào chẳng phải Thế Luận ư? ” Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Có. Mà chẳng phải ngươi có, phi tác phi tông, phi thuyết phi bất thuyết, phi bất nhân duyên thí dụ trang nghiêm.” Bà La Môn hỏi : “Thế nào là phi Thế Luận, phi phi tông, phi phi thuyết?” Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Có phi Thế Luận mà ngoại đạo các ngươi chẳng thể biết, vì vọng tưởng chẳng thật, hư ngụy chấp trước nơi ngoài thánh. Nói VỌNG TƯỞNG CHẲNG SANH, nếu giác liễu pháp hữu vô và tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, chẳng nhiễm ngoại trần, dứt hẳn vọng tưởng, ấy gọi là Phi Thế Luận. Đây là pháp tu chẳng phải ngươi có vậy “. Khi ấy, Bà La Môn lại lược thuyết sự nhận thức của họ, hoặc khứ hoặc lai, hoặc sanh hoặc tử, hoặc vui hoặc khổ, hoặc chìm hoặc nổi, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc hòa hợp hoặc tương tục, hoặc ái hoặc nhân ái, chấp trước đủ thứ tướng. Ta nói : ” Bà La Môn! So Đo như thế đều là Thế Luận của bọn ngươi chẳng phải ta có “. Đại Huệ! Thế Luận Bà La Môn hỏi như thế, ta đáp như thế, họ liền im lặng chẳng từ giả mà lui ra, lại còn suy tư chỗ Tự Thông mà nghĩ rằng : “Sa Môn Thích thử vượt ra ngoài tướng thông, nói Vô Sanh, Vô Tướng, Vô Nhân, giác được tướng hiện của tự vọng tưởng thì vọng tưởng chẳng sanh.” Đại Huệ! Đây tức là chỗ ngươi hỏi Ta “Tại sao nói gần gũi Thế Luận đủ thứ biện luận, là nhiếp thọ tham dục, chẳng nhiếp thọ pháp?”

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Nhiếp thọ tham dục và pháp có nghĩa cú gì?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Ngươi khéo vì chúng sanh đời vị lai tư duy xin hỏi nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì người mà thuyết, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

    Đại Huệ Bồ Tát bach Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Đối với nghĩa THAM, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, đọa tà kiến nhị biên, do đó luân hồi tương tục, lại sanh ngũ ấm, sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sanh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế Luận, thành kẻ Thế Luận. Ta và chư Phật nói là THAM, ấy gọi nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ pháp.

    – Đại Huệ! Thế nào là Nhiếp Thọ Pháp? Là khéo thấu rõ tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngã và pháp Vô Ngã thì vọng tưởng chẳng sanh, khéo biết từng bậc tiến lên chư Địa của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí huệ quán đảnh, trọn vẹn nhiếp thọ Thập Vô Tận Cú, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là PHÁP, nghĩa là chẳng đọa tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên, v.v… Đại Huệ! Có nhiều hạng si mê ngoại đạo nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí huệ. Chấp thọ Vô Nhân Luận thì sanh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sanh khởi đoạn kiến. Đại Huệ! Ta chẳng thấy sanh, trụ, diệt, nên nói là PHÁP. Đại Huệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Tất cả thế gian luận

    Là Ngoại đạo vọng thuyết.

    Vọng thấy tác sở tác,

    Thuyết họ chẳng tự thông.

    Duy nhất Tự Tông Ta,

    Lìa nơi tác sở tác.

    Vì các đệ tử thuyết,

    Xa lìa những Thế Luận.

    Tâm Lượng chẳng thể thấy,

    Nhiếp sở nhiếp phi tánh.

    Chẳng quán sát hai tâm,

    Đoạn thường thảy đều lìa.

    Ngoại đạo tâm lưu chuyển.

    Ta gọi là Thế Luận.

    Người vọng tưởng chẳng chuyển,

    Người ấy thấy tự tâm,

    LAI thì có sự sanh,

    KHỨ thì sự chẳng hiện.

    Thấu rõ việc khứ lai,

    Thì vọng tưởng chẳng khởi.

    Hữu thường và vô thường,

    Năng tác và sở tác,

    Đời này hay đời sau,

    Đều là Thế Luận Thông.
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  8. #7
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Phật nói NIẾT BÀN, pháp nào gọi là Niết Bàn? Mà các Ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh khởi vọng tưởng khác nhau?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Như vọng tưởng Niết Bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo diệt ấm, giới,nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.

    – Đại Huệ! Hoặc có Ngoại đạo cho “từ phương này đến phương kia” gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có Ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự tánh, ví như Minh Sơ (1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu Na dụ cho vi trần, cho Cầu Na là tác giả, nói từ vi trần sanh tứ đại, cũng như từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp có Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết Bàn.



    (1) MINH SƠ : Thuật ngữ, Số Luận sư lập hai mươi lăm đế, đế thứ nhất là Minh Đế, vì Minh Đế là ban sơ của các pháp, nên gọi là Minh Sơ.
    (2) CẦU NA : Dịch là y chỉ, là thật thể của tứ đại mà sanh ra các đức dụng của sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… Còn ở Thập Cú Nghĩa Luận thì nói gồm hai mươi bốn đức. Ngoài ra, Số Luận nói gồm có ba đức : Vui, buồn và ám muội.






    https://www.facebook.com/profile.php?id=100021315279907
    [/center]
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •