KINH LĂNG GIÀ Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
__________________________________________________ ______________________________________
QUYỂN THỨ NHÌ
PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
........
Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết Tứ quả, Tứ hướng của thừa Thanh Văn về tướng thông nhau và sai biệt. Nếu Đại Bồ Tát khéo biết tướng thông và sai biệt của Tứ quả, Tứ hướng, thì có nhiều phương tiện vì chúng sanh thuyết pháp, khiến chúng sanh thông đạt cứu cánh, như hai thứ tướng vô ngã và trừ sạch hai thứ phiền não và sở tri chướng, trải qua tướng chư Địa, đến cảnh giới cứu cánh bất tư nghì của Như Lai. Giống như hạt châu Ma Ni tùy sắc, khéo dùng tất cả pháp cảnh giới vô tận thân tài để nhiếp thọ, lợi ích tất cả chúng sanh.
Phật bảo Đại Huệ :
– Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, nay Ta vì ngươi thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
– Lành thay Thế Tôn! Con xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
– Có ba thứ Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn quả sai biệt. Thế nào là ba? Nghĩa là hạ, trung, thượng. Hạ đó, bảy đời sanh mới vào Niết Bàn; Trung đó, ba hoặc năm đời mới vào Niết Bàn; Thượng đó, ngay đời ấy liền vào Niết Bàn. Ba hạng này còn tam kết hạ, trung, thượng, ấy là : Thân kiến, nghi kiến và giới thủ kiến, đó là tam kế sai biệt, dần dần tiến lên thì đắc quả A La Hán.
THÂN KIẾN có hai thứ : Là Câu Sanh (mới sanh đã sẵn có) và vọng tưởng, như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, là nương theo duyên khởi tự tánh thì các thứ vọng tưởng tự tánh chấp trước sanh khởi. Vì tướng vọng tưởng chẳng thật, phi hữu phi vô, cũng chẳng phải hữu và vô mà phàm phu vọng tưởng chấp trước mỗi mỗi tự tánh vọng tưởng, như con nai đang khát tưởng dương diệm là nước, đó là thân kiến vọng tưởng của Tu Đà Hoàn. Bậc này tu theo nhơn (người) vô ngã, nhiếp thọ pháp vô tánh, dứt trừ vô tri chấp trước lâu đời.
– Đại Huệ! Câu sanh là thân kiến của Tu Đà Hoàn, chấp có tự thân tha thân v.v… Vì có tướng bốn ấm Vô Sắc, có năng tạo và sở tạo lần lượt làm nhơn tướng mà sanh ra sắc. Vì đại chủng và sắc chẳng phải một, nên Tu Đà Hoàn quán pháp hữu và vô chẳng hiện thì thân kiến liền đoạn. Thân kiến đoạn thì tham dục chẳng sanh, ấy gọi là tướng thân kiến hết.
– Đại Huệ! TƯỚNG NGHI là tướng thấy được các pháp thiện (tức là đắc nhơn vô ngã thì lý nghi dứt) và hai thứ vọng tưởng thân kiến ở trên đã dứt, thì pháp nghi chẳng sanh. Không ở nơi khác khởi kiến chấp nghi bậc Sư là tịnh hay là bất tịnh thì nghi Sư dứt. Đến đây, nghi lý, nghi pháp, nghi Sư đều hết, ấy gọi là tướng Nghi của Tu Đà Hoàn đoạn dứt.
– Đại Huệ! Thế nào là GIỚI THỦ KIẾN? Tu Đà Hoàn chẳng thủ giới, vì thấy rõ tướng khổ nơi vị lai thọ sanh nên chẳng thủ. Đại Huệ! Nói THỦ, là sự quyết định thực tập khổ hạnh tinh tấn của phàm phu, cầu sanh cảnh giới thú vui của cõi Trời. Bậc họ chẳng thủ, là hồi hướng chỗ tối thắng tự giác, vốn lìa vọng tưởng, tu pháp Vô Lậu, hành tướng phương tiện, dù chẳng thủ, nhưng cũng thọ trì giới chi (Giới phần Vô Lậu), ấy gọi là đoạn dứt tướng giới thủ của Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn đoạn dứt tam kết, tham si chẳng sanh, nếu Tu Đà Hoàn nghĩ như thế, nói ” Ta chẳng thành tựu các kết này “, ắt có hai lỗi : Đọa thân kiến và các kết chẳng dứt.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Phật nói nhiều tham dục, vậy họ đoạn dứt tham dục gì?
Phật bảo Đại Huệ :
– Họ đoạn dứt những trói buộc như yêu thích người nữ, tham trước đủ thứ phương tiện, tạo thân khẩu ác nghiệp, thọ sự vui trước mắt mà gieo khổ đời vị lai v.v… chẳng sanh tham dục kể trên. Tại sao? Vì họ đắc sự vui của Tam muội chánh thọ, nên họ đoạn dứt tham dục thế gian mà chẳng phải đoạn dứt sự ham Niết Bàn.
– Đại Huệ! Thế nào là tướng Tư Đà Hàm? Ấy là đốn chiếu soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sanh tướng thấy tướng sanh. Vì khéo thấy được tướng thiền hạnh, nền vãng lai thế gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết Bàn, nên gọi là Tư Đà Hàm.
– Đại Huệ! Thế nào là A Na Hàm? Nghĩa là đoạn dứt sự sanh kiến chấp lỗi lầm của kết tập (tập khí phiền não), chẳng sanh vọng tưởng sắc tướng nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, tánh phi tánh, gọi là A Na Hàm.
– Đại Huệ! Nói là A La Hán, là do sức sáng suốt giải thoát Tam muội của chư Thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A La Hán.
Đại Huệ bạch Phật rằng :
– Thế Tôn! Phật thuyết ba hạng A La Hán, nói A La Hán này là thuộc hạng nào? Thế Tôn! Vì đắc tịch tịnh của đạo Nhất thừa, nên Đại Bồ Tát phương tiện thị hiện A La Hán để giúp Phật giáo hóa.
Phật bảo Đại Huệ :
– Đắc tịch tịnh là đạo Nhất thừa của Thanh Văn, chẳng phải thừa khác. Thừa khác là hành hạnh Bồ Tát, do phương tiện khéo léo của bốn nguyện, nên ở nơi chúng sanh thị hiện thọ sanh và giúp Phật giáo hóa, cũng vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật vậy. Đại Huệ! Ở nơi vọng tưởng thuyết đủ thứ pháp, nói đắc quả đắc thiền, thiền giả nhập thiền, thảy đều xa lìa, thị hiện chứng đắc tự tâm hiện lượng, đắc tướng quả, gọi là đắc quả. Lại nữa, Đại Huệ! Muốn siêu việt thiền của vô lượng Vô Sắc Giới, nên lìa tướng tự tâm hiện lượng. Đại Huệ! Nói chánh thọ, thọ tưởng, siêu việt tự tâm hiện lượng là chẳng đúng. Tại sao? Vì còn có tâm lượng vậy.
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :
Chư thiền Tứ Vô Lượng,
Vô sắc Tam Ma Đề.
Tất cả thọ, tưởng diệt,
Tâm lượng vốn không có (1).
Sơ quả và nhị quả,
Tam quả A Na Hàm.
Tứ quả A La Hán,
Đều dứt tâm mê hoặc.
Thiền giả duyên thiền định,
Đoạn chấp thấy Chơn Đế.
Dù vọng tưởng vô lượng,
Giác ngộ liền giải thoát.
Bốn câu trước là chỉ các thứ Thiền Phàm phu, Ngoại đạo và Tiểu thừa, đã được giải ở trên.