DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 6/9 ĐầuĐầu ... 45678 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 51 tới 60 của 86
  1. #51
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng đã chẳng thật, do đâu mà sanh khởi? Pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật? Ở trong pháp nào có vọng tưởng chẳng thật?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Ngươi khéo hỏi Như Lai những nghĩa như thế, là thương xót tất cả Trời, Người thế gian, khiến họ được nhiều lợi ích và nhiều an lạc. Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Mỗi mỗi nghĩa lý là mỗi mỗi vọng tưởng chấp trước chẳng thật, dó đó sanh khởi vọng tưởng. Đại Huệ! Người chẳng biết tự tâm hiện lượng, đọa kiến chấp hữu và vô, chấp trước năng nhiếp sở nhiếp, tăng trưởng kiến chấp của ngoại đạo. Do tập khí vọng tưởng, chấp trước đủ thứ nghĩa lý của ngoại đạo, đối với pháp Tâm, Tâm số (1) vọng tưởng chấp trước, cho là chỗ nhân duyên sanh khởi của ngã và ngã sở.


    (1) PHÁP TÂM, TÂM SỐ : TÂM là tâm vương, gồm tám thứ thức, chấp cho là ngã. TÂM SỐ gồm năm mươi mốt thứ, như tham, sân, si v.v.. cho là sở hữu của ngã, chấp là ngã sở.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  2. #52
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Nếu mỗi mỗi nghĩa lý mỗi mỗi chẳng thật, do tập khí vọng tưởng, chấp trước những pháp tâm và tâm số mà sanh khởi kiến chấp ngã và ngã sở. Thế Tôn! Nếu như thế thì mỗi mỗi tướng nghĩa của ngoại đạo, đọa tướng hữu và vô, lìa tướng thấy, lìa tánh phi tánh. Thế Tôn! Đệ Nhất Nghĩa cũng thế, lìa tướng nhân căn lượng thí dụ phân biệt. Thế Tôn! Tại sao chỉ có một chỗ nghĩa vọng tưởng chẳng thật của ngoại đạo thì mỗi mỗi tánh vọng tưởng chấp trước sanh, mà chấp trước chỗ Đệ Nhất Nghĩa thì vọng tưởng bất sanh? Nói một sanh (Ngoại đạo), một bất sanh (Phật), há chẳng phải Thế Tôn thuyết tà Nhân Luận ư?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Chẳng phải vọng tưởng một sanh một bất sanh. Tại sao? Vì bậc Thánh vọng tưởng hữu vô bất sanh, nên ngoài hiện tánh phi tánh, do giác được tự tâm hiện lượng mà vọng tưởng bất sanh. Đại Huệ! Ta nói mỗi tướng vọng tưởng tự tâm của phàm phu, vì trước kia đã tạo nghiệp chấp trước phân biệt, nên mỗi mỗi tánh tướng vọng tưởng sanh. Nay muốn khiến phàm phu ngộ pháp vốn Vô Sanh, phải lìa kiến chấp ngã và ngã sở, lìa kiến chấp vọng tưởng năm pháp tự tánh, thì thân tâm chuyển biến, thấu rõ cảnh giới Cứu Cánh Nhất Thiết Địa của Như Lai tự giác, do nhân duyên này nên ta nói vọng tưởng từ chấp trước mỗi nghĩa chẳng thật mà sanh. Nếu ngộ nghĩa như thật thì chẳng sanh, mà được giải thoát mỗi mỗi vọng tưởng của tự tâm.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Từ nhân duyên hữu vô,

    Mà sanh khởi thế gian.

    Vong tưởng chấp Tứ cú,

    Chẳng rõ Thuyết Thông ta

    Thế gian chẳng hữu sanh,

    Cũng chẳng phải vô sanh.

    Chẳng từ hữu, vô sanh,

    Cũng chẳng phi hữu vô.

    Tại sao những phàm phu,

    Vọng tưởng chấp nhân duyên.

    Tất cả pháp Vô Sanh,

    Do nhân duyên có sanh.

    Phi hữu cũng phi vô,

    Cũng chẳng phải hữu vô.

    Quán thế gian như thế,

    Chuyển tâm đắc Vô Ngã.

    Tất cả duyên sở tác,

    Sở tác chẳng tự có.

    Việc chẳng tự sanh việc,

    Vì có lỗi hai việc.

    Nếu chẳng lỗi hai việc,

    Thì chẳng tánh để đắc.

    Quán các pháp Hữu Vi,

    Lìa năng duyên sở duyên.

    Tâm lượng của vô tâm,

    Ta nói là tâm lượng.

    Nơi tự tánh nói lượng,

    Nhân duyên thảy đều lìa.

    Tự tánh vốn trong sạch,

    Ta gọi là tâm lượng

    Phương tiện lập tục đế,

    Bổn lai chẳng sự thật,

    Phương tiện lập ngũ ấm,

    Chẳng thật cũng như thế.

    Có bốn thứ bình đẳng :

    Tướng vô tướng bình đẳng,

    Sanh vô sanh bình đẳng,

    Ngã vô ngã bình đẳng,

    Tu sở tu bình đẳng.

    Vọng tưởng tập khí chuyển,

    Có mỗi mỗi tâm sanh.

    Cảnh giới hiện bên ngoài,

    Là tâm lượng thế tục.

    Ngoài hiện vốn chẳng có,

    Tâm lại thấy đủ thứ.

    Do kiến lập thân tài,

    Ta nói là Tâm Lượng.

    Lìa tất cả kiến chấp,

    Năng tưởng và sở tưởng.

    Vô đắc cũng Vô sanh,

    Ta nói là Tâm Lượng.

    Phi tánh chẳng phi tánh,

    Tánh phi tánh đều lìa.

    Nơi tâm được giải thoát,

    Ta nói là Tâm Lượng.

    Như như với hư không,

    Niết bàn và pháp giới

    Mỗi mỗi ý sanh thân,

    Ta nói là Tâm Lượng.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  3. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoangtri (03-13-2022)

  4. #53
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, Đại Bồ Tát nên thấu ngữ nghĩa. Thế nào là Bồ Tát khéo thấu ngữ nghĩa? Thế nào là ngữ?

    Thế nào là nghĩa?

    Phật bảo Đại Huệ

    – Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Thế nào là NGỮ? Là nói nương theo cổ họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, hòa hợp vọng tưởng, sanh ra văn tự ngôn thuyết, do đó tập khí chấp trước sanh khởi, ấy gọi là Ngữ.

    – Thế nào là NGHĨA? Là nói lìa tất cả tướng vọng tưởng và ngôn thuyết mà hiển bày tánh nghĩa, ấy gọi Nghĩa. Đại Huệ! Đại Bồ Tát ở nơi tĩnh lặng, dùng huệ Văn, Tư, Tu, quán theo nghĩa này thì được duyên tự giác liễu, hướng vào thành Niết Bàn, cho đến thân tập khí chuyển biến rồi thì chứng cảnh giới tự giác, khéo quán tướng Nghĩa Thắng Tiến từ Sơ Địa đến Thập Địa, ấy gọi là Đại Bồ Tát khéo thông tướng Nghĩa.

    – Lại nữa, nói ĐẠI BỒ TÁT KHÉO THÔNG NGỮ NGHĨA, là quán ngữ và nghĩa chẳng phải khác, chẳng phải không khác; quán nghĩa và ngữ cũng như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà hiểu nghĩa, thật thì do ngữ vào nghĩa, cũng như ngọn đèn chiếu soi mà hiện sắc tướng vậy.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Tự tánh Niết Bàn bất sanh bất diệt, Tam Thừa, Nhất Thừa, tâm và tự tánh vốn Bình đẳng. Nếu duyên theo nghĩa ngôn thuyết chấp trước, thì đọa kiến chấp phủ nhận và kiến lập, cho có kiến lập khác biệt và vọng tưởng khác biệt, hiện mỗi mỗi vọng tưởng như huyễn. Ví như mỗi mỗi tướng huyễn, chúng sanh ngu si cho là vọng tưởng có khác biệt, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Theo vọng tưởng ngôn thuyết,

    Kiến lập nơi các pháp.

    Do lỗi kiến lập ấy,

    Chết rồi đọa địa ngục.

    Trong ấm chẳng có ngã,

    Ấm tức chẳng phải ngã.

    Cũng chẳng phải Vô Ngã,

    Chẳng như vọng tưởng kia.

    Chấp tất cả có tánh,

    Là vọng tưởng phàm phu.

    Nếu như kiến chấp họ,

    Tất cả thành Chơn Đế.

    Tất cả pháp Vô Tánh,

    Dơ sạch thảy đều lìa.

    Kiến chấp họ chẳng thật,

    Cũng chẳng phải đoạn diệt.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  5. #54
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta sẽ thuyết tướng Trí Thức, nếu ngươi và các Bồ Tát khéo phân biệt được tướng Trí Thức, tức là thông đạt tướng Trí Thức, sẽ chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Huệ! Có ba thứ trí là : Thế gian trí, xuất thế gian trí và xuất thế gian thượng thượng trí. Thế nào là THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả phàm phu ngoại đạo chấp trước hữu và vô. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả Thanh Văn, Duyên Giác do chấp trước hy vọng chứng quả Niết Bàn, đọa tự tướng sở chứng cho là cộng tướng. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN THỰƠNG TRÍ? Ta nói chư Phật Bồ Tát quán pháp Vô Sanh, thấy bất sanh bất diệt, lìa pháp hữu và vô, duyên Vô Sư Trí, tự chứng đắc Nhơn Pháp Vô Ngã của địa vị Như Lai.

    Đại Huệ! Sanh diệt là Thức, bất sanh bất diệt là Trí. Lại nữa đọa tướng vô tướng và đọa mỗi mỗi nhân tướng hữu và vô là Thức, siêu việt tướng hữu vô là Trí. Lại nữa, nuôi dưỡng tướng là Thức, chẳng nuôi dưỡng tướng là Trí. Lại nữa, có ba thứ trí : Là biết sanh diệt, biết tự cộng tướng, biết bất sanh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là Trí, mỗi mỗi cảnh giới tướng ngại là Thức. Lại nữa, chấp ba sự hòa hợp (1) sanh tướng phương tiện là Thức, tướng tự tánh chẳng nhờ sự phương tiện là Trí. Lại nữa, đắc tướng là Thức, chẳng đắc tướng là Trí. Vì cảnh giới Tự Giác Thánh Trí chẳng xuất chẳng nhập, như bóng trăng trong nước, chẳng thể đắc vậy.

    (1) BA SỰ HÒA HƠP : 1.- Căn bản duyên của thức thứ tám. 2.- Tác ý, tức tự thể của thức thứ sáu. 3.- Chủng tử, tức do thức thứ sáu huân tập mà thành.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  6. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoatihon (03-16-2022)

  7. #55
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Tích tụ nghiệp là Thức,

    Chẳng tích tụ là Trí.

    Quán sát tất cả pháp,

    Thông đạt nghĩa Vô Sanh.

    Khi đắc sức tự tại,

    Thì gọi là trí huệ.

    Tâm lìa cảnh giới trói,

    Trí giác tưởng liền khởi.

    Cho đến tướng Thắng Diệu,

    Đại trí huệ tự sanh.

    Xa lìa tư duy tưởng,

    Tâm, ý, và ý thức.

    Bồ Tát Vô phân biệt,

    Thanh Văn chẳng thể đến.

    Tịch tịnh thắng tiến nhẫn (1)

    Trí Như Lai trong sạch.

    Khéo sanh Thắng Nghĩa Đế,

    Sở hành thảy xa lìa.

    Ta thuyết ba thứ trí,

    Mở mang tánh chơn thật.

    Nhị thừa có chứng đắc,

    Chấp trước nơi tự tánh.

    Nơi tưởng tư duy kia,

    Nhiếp thọ tất cả tướng.

    Thành Thanh Văn, Duyên Giác.

    Bậc trí lìa chư hữu,

    Siêu việt những tâm lượng,

    Là thanh tịnh Như Lai.



    (1) TịCH TịNH THẮNG TIẾN NHẪN : Trong Kinh Nhơn Vương nói năm thứ nhẫn là : Điều phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô Sanh nhẫn và Tịch diệt nhẫn.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  8. #56
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........

    – Lại nữa, Đại Huệ! Ngoại đạo có chín thứ Chuyển Biến Luận (1) sanh kiến chấp chuyển biến của ngoại đạo, ấy là : Hình Xứ chuyển biến, Tướng chuyển biến, Nhân chuyển biến, Thành chuyển biến, Kiến chuyển biến, Tánh chuyển biến, Duyên Phân Minh chuyển biến, Sở Tác Phân Minh chuyển biến, Sự chuyển biến, gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến.

    (1) CHÍN THỨ CHUYỂN BIẾN LUẬN CỦA NGOẠI ĐẠO :

    1.- HÌNH XỨ chuyển biến : Là nói chúng sanh luân hồi trong lục đạo, mỗi mỗi hình tướng và vứ sở chuyển biến chẳng đồng.
    2.- TƯỚNG chuyển biến : Là tướng của tứ đại ngũ ấm sanh, trụ, diệt chuyển biến chẳng đồng.
    3.- NHÂN chuyển biến : Do chủng tử làm nhân, nhân diệt thì quả sanh, chuyển biến chẳng đồng.
    4.- THÀNH chuyển biến : Là nói do nhân duyên thành tựu các pháp, có thành có hoại, chuyển biến chẳng đồng.
    5.- KIẾN chuyển biến : Nói các pháp tùy thời gian biến đổi, trước thấy thì đúng, sau thấy thì sai, chuyển biến chẳng đồng.
    6.- TÁNH chuyển biến : Nói các pháp chuyển lạ thành quen, chuyển đắng thành ngọt, chuyển biến chẳng đồng.
    7.- DUYÊN PHÂN MINH chuyển biến : Nói mười hai nhân duyên sanh diệt chẳng ngừng, phân minh chuyển biến chẳng đồng.
    8.- SỞ TÁC PHÂN MINH chuyển biến : Do duyên sở tác thành quả, có sanh rồi lại diệt, chuyển biến chẳng đồng.
    9.- SỰ chuyển biến : Nói căn, thân, khí giới (vũ trụ vạn vật) các pháp hữu vi cuối cùng đều phải biến hoại.


    Chín thứ chuyển biến này hoặc từ vô thành hữu, hoặc từ hữu thành vô, do đó vọng sanh phân biệt lập ra Chuyển Biến Luận.

    – Đại Huệ! Tất cả ngoại đạo vì chấp hữu và vô, sanh khởi Chuyển Biến Luận. Thế nào là HÌNH XỨ chuyển biến? Là thấy nhiều hình xứ khác nhau, ví như vàng ròng chuyển biến thành các thứ đồ dùng thì có mỗi mỗi hình xứ hiển hiện, mà chẳng phải có tánh vàng chuyển biến. Tất cả chuyẻn biến cũng như thế. Hoặc có ngoại đạo tự sanh vọng tưởng như thế; từ vọng tưởng HÌNH XỨ chuyển biến cho đến SỰ chuyển biến, tất cả tánh của chín thứ chuyển biến như thế, chẳng phải như vọng tưởng, cũng chẳng phải khác với vọng tưởng. Nên biết vọng tưởng chuyển biến của ngoại đạo, cũng như tô lạc, rượu, trái cây, v.v.. từ nhân ban sơ chuyển biến thành quả chín mùi, hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, ngoài tánh phi tánh, thật ra tự tâm chẳng có chuyển biến. Đại Huệ! Chúng sanh ngu si như thế, tự sanh vọng tưởng tu tập, thấy pháp hữu vô hoặc sanh hoặc diệt, như thấy sắc tướng sanh nơi mộng huyễn vậy.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Lúc hình xứ chuyển biến,

    Là tứ đại chuyển biến.

    Trung ấm (thân) chẳng tứ đại,

    Cũng không ngoài hình xứ.

    Chuyển biến thuộc vọng tưởng,

    Chẳng phải bậc Minh trí.

    Vậy duyên khởi thế gian,

    Như thành Càn Thát Bà.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  9. #57
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........



    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ Tát khéo hiểu tất cả phương tiện khéo léo, chẳng đọa nghĩa sở thuyết của ngoại đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng ngôn thuyết văn tự dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng đại chúng hiện sức tự tại thần thông, Tổng trì Pháp ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi giác huệ, khéo dùng Thập Vô Tận Cú, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhựt nguyệt, châu Ma Ni và tứ đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào địa vị Phật nơi tất cả cõi chúng sanh, tùy cơ thích ứng mà thuyết pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sanh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v.. Chuyển tướng Sở Y thành thân Tối Thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của ngoại đạo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Tà sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa sở thuyết chấp trước tương tục của ngoại đạo, ấy là : Tướng chấp trước tương tục, Duyên chấp trước tương tục, Tánh Phi Tánh chấp trước tương tục, vọng tưởng Sanh Bất Sanh chấp trước tương tục, vọng tưởng Diệt Bất Diệt chấp trước tương tục, vọng tưởng Thừa Phi Thừa chấp trước tương tục, vọng tưởng Hữu Vi, Vô Vi chấp trước tương tục, vọng tưởng Địa Địa Tự Tướng chấp trước tương tục, vọng tưởng Tự Vô Gián chấp trước tương tục, vọng tưởng Y Pháp Hữu Vô của ngoại đạo chấp trước tương tục, vọng tưởng Tam Thừa, Nhất Thừa Vô Gián chấp trước tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Đây là những chúng sanh ngu si tự sanh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch tịnh thì vọng tưởng chẳng sanh, nên Đại Bồ Tát phải quán tất cả pháp tịch tịnh.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Giác được ngoài tánh phi tánh thì tướng tự tâm hiện lượng chẳng có, thuận theo sự quán sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều vô tướng. Vì tương tục tịch tịnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng Tương tục và bất Tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng đọa tri kiến có không thật không như thật ỏỏ cho là có trói có mở. Tại sao? Vì tất cả pháp hữu và vô đều bất khả đắc. Nếu thấy có tất cả pháp để Không là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sanh để độ thì chưa thể quên nơi chúng sanh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng th gọi là cảnh giới chơn như thật tế.

    – Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để Không tức là nơi pháp mà lìa pháp; độ tất cả chúng sanh chẳng thấy có tất cả chúng sanh để độ, tức là nơi chúng sanh mà lìa chúng sanh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sanh đều bất khả đắc vậy.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  10. #58
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM


    ........


    – Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là : Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sanh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sanh tương tục luân hồi trong lục đạo. Đại Huệ! Nếu tương tục đoạn dứt thì chẳng có tương tục và bất tương tục.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Chấp trước ba duyên hòa hợp (1) làm phương tiện thì sanh thức ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợp và thức ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sanh.

    (1) BA DUYÊN HÒA HƠP : Tức là căn, cảnh, thức. Căn là lục căn, cảnh là lục trần. Thức là lục thức. Tất cả pháp đều do ba thứ nhân duyên này hòa hợp sanh khởi.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Vọng tưởng chẳng chơn thật,

    Nói là tướng tương tục.

    Nếu liễu tri chơn thật,

    Thì lưới tương tục dứt.

    Vì chúng sanh vô tri,

    Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ.

    Ví như con tằm kia,

    Nhả tơ để tự trói.

    Vọng trói của phàm phu,

    Tương tục cũng như thế.


    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Như Thế Tôn sở thuyết, vì chấp trước mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Thế Tôn! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng tự tánh. Há chẳng phải Thế Tôn nói “Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết Bàn thảy đều vô tánh ư?”. Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi các pháp đoạn diệt ư? Tại sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉ là tự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt ư?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Đúng thế, đúng thế! Như ngươi sở thuyết, Đại Huệ! Như Thánh Trí có tánh của tự tánh là : Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn, như thế, tánh của tự tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chơn thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của tự tánh vậy.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  11. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoangtri (03-19-2022)

  12. #59
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãn và Nhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

    – Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướng là cảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới tự sở hành của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướng là cảnh giới, do cảnh giới của phàm phu mà tự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhất là Vô Tướng, Bản thể của Vô Tướng là Pháp Thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là HỮU, chẳng nói vô nhân mà gọi là VÔ, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh “chẳng đọa nơi hữu và vô” như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.

    – Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao như thật mà biết vọng tưởng? Thế Tôn! Tướng vọng tưởng và tướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởng và tướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trước có cảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp KHÔNG tịch tịnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh Trí tự tánh?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp KHÔNG phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh Trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh Trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp KHÔNG thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp KHÔNG như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do sự tâm hiện đắc tâm giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của tự tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chẳng nên lập “TẤT CẢ PHÁP BẤT SANH” làm tông. Tại Sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói “Lập tông phải hoại” là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô sanh chẳng hoại, nên “Tất cả pháp chẳng th lập tông thì hoại”. Đại Huệ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ! Gỉa sử tông kia chẳng sanh, đem “tất cả tánh chẳng sanh” mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, dó đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp không có tự tánh thì chẳng nên lập tông.

    – Đại Huệ! Nhưng Đại Bồ Tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại thừa.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng :

    Vô thuyết vô tự tánh,

    Vô sự vô tương tục.

    Phàm phu vọng chấp thật,

    Như xác chết có giác.

    Tất cả pháp bất sanh,

    Chẳng như tông ngoại đạo.

    Các pháp vốn Vô Sanh,

    Do nhân duyên thành tựu.

    Tất cả pháp bất sanh,

    Bậc trí chẳng phân biệt.

    Việc do lập tông sanh,

    Kẻ giác phải diệt trừ.

    Ví như mắt bệnh nhặm,

    Vọng thấy tướng hoa đốm.

    Tánh chấp trước cũng thế,

    Do phàm phu vọng tưởng.

    Phân biệt hiện tam giới,

    Sự Tự Tánh chẳng có,

    Mà lập sự tự tánh,

    Vì tư duy khởi vọng,

    Tùy sự lập ngôn giáo,

    Vọng tưởng rất lăng tăng.

    Phật tử hãy siêu thoát,

    Xa lìa các vọng tưởng.

    Phi nước tưởng là nước,

    Do khát nước vọng sanh.

    Phàm phu mê như thế,

    Bậc Thánh chẳng thấy vậy.

    Bậc Thánh thấy trong sạch,

    Chánh định tam giải thoát.

    Xa lìa nơi sanh diệt,

    Dạo đi cõi Vô Sanh.

    Tu hành vô sở tu,

    Cũng chẳng tánh phi tánh.

    Tánh phi tánh bình đẳng,

    Do đó sanh Thánh quả.

    Thế nào tánh phi tánh?

    Thế nào pháp bình đẳng?

    Tâm tri tâm bất tri,

    Trong ngoài và động tịnh.

    Nếu người được đoạn dứt,

    Ắt thấy tâm bình đẳng.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  13. #60
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Đại Huệ lại bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết “Phân biệt bất sanh”, ấy gọi là Trí. Vậy cái tên TRÍ này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Thế Tôn! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí ư?

    – Thế Tôn! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, nên nói VÔ TRÍ, vì có sự “chẳng đắc” vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn! Do có nhĩ diệm ( mẹ của trí ) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự “Có Trí” bất khả đắc vậy.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ngươi nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà “SỰ” chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi “nhĩ diệm” chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu Ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Chẳng trụ sự phan duyên,

    Và trí huệ quán sát,

    Vô trí tức Chánh Trí,

    Vọng cho là phi trí.

    Nơi tánh tướng chẳng khác,

    Nếu chấp theo quán sát,

    Những chướng ngại xa gần,

    Ấy gọi là tà trí.

    Do lục căn chẳng đủ,

    Nói trí huệ chẳng sanh.

    Thật thì có nhĩ diệm,

    Ấy cũng gọi tà trí.


    – Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu ngu si chẳng khéo liễu tri, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư ngụy từ vô thỉ xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến Tự Tông Thông và Thuyết Thông, nên chấp cái thuyết phương tiện, mà chẳng khéo phân biệt tứ cú của Tự Tông và Tướng Thông trong sạch.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Đúng như Phật dạy, cúi xin Thế Tôn vì chúng con phân biệt Thuyết Thông và Tông Thông, khiến con và các Đại Bồ Tát thấu rõ hai thứ thông, cũng khiến phàm phu, Thanh Văn và Duyên Giác đời vị lai chẳng mắc lỗi lầm.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Tam thế Như Lai có hai thứ pháp thông, là Thuyết Thông và Tự Tông Thông. Nói THUYẾT THÔNG, là tùy sự thích ứng của tâm chúng sanh mà thuyết mỗi mỗi pháp ghi đủ trong khế kinh (Khế lý khế cơ), gọi là Thuyết Thông. Nói TỰ TÔNG THÔNG, là nói người tu hành lìa mỗi mỗi vọng tưởng do tự tâm hiện, chẳng đọa kiến chấp nhị biên nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, siêu thoát, tất cả tâm, ý, ý thức.
    Đối với cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, lìa kiến chấp nhân duyên và kiến chấp tương ưng do công hạnh tạo tác mà thành. Tất cả ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, người đọa nhị biên đều chẳng thể biết, ta gọi là pháp Tự Tông Thông. Đại Huệ! Tướng Tự Tông Thông và Thuyết Thông này, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Kinh thủ lăng nghiêm trực chỉ
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 263
    Bài cuối: 09-07-2020, 04:06 PM
  2. Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan
    Gửi bởi Tuệ Thức trong mục Kinh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-24-2019, 04:14 AM
  3. Trả lời: 12
    Bài cuối: 10-06-2017, 12:09 PM
  4. Kinh Thủ Lăng Nghiêm _ Thiền sư Thích Từ Thông giảng!
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 3
    Bài cuối: 09-09-2016, 03:44 PM
  5. Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại sư Pháp Vân giảng)
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 151
    Bài cuối: 09-08-2015, 11:04 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •