DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 7/9 ĐầuĐầu ... 56789 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 61 tới 70 của 86
  1. #61
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Ta nói hai thứ thông,

    Tông thông và Thuyết thông.

    Thuyết thông dạy sơ cơ,

    Tông thông là giải thoát.


    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn có khi nói rằng : “Đối với mỗi mỗi lập luận của thế gian chớ nên gần gũi học tập. Nếu gần gũi học tập là nhiếp thọ tham dục, chẳng Nhiếp Thọ pháp”. Tại sao Thế Tôn nói như thế?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Mỗi mỗi nghĩa cú ngôn luận của thế gian nhân duyên tích tập, những nhân duyên thí dụ giống như trang nghiêm để dụ dẫn dối gạt những phàm phu ngu si, chẳng thể vào chơn thật Tự Thông, chẳng biết tất cả pháp vọng tưởng điên đảo. Phàm phu mê hoặc, đọa nơi tà kiến nhị biên, tự phá hoại chánh kiến chánh pháp, luân hồi lục đạo, chẳng thể giải thoát. Do vọng tưởng chấp trước, chẳng thể giác được tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoài tánh của tự tánh. Do đó, mỗi mỗi lập luận của thế gian chẳng thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, dối gạt và mê hoặc.


    – Đại Huệ! Xưa kia Thích Đề Hoàn Nhân rộng hiểu các luận, tự tạo Thanh Luận. Bọn Thế Luận kia có một người đệ tử hiện hình tượng rồng, đến Thiên cung Đế Thích kiến lập tông chỉ Thế Luận, và hẹn nhau với Thích Đế Hoàn Nhân rằng : “Nay ta cùng ngươi biện luận, nếu ta thắng thì ta sẽ hoại bánh xe ngàn căm của ngươi, nếu ngươi thắng thì sẽ chém đầu ta để tạ lỗi cho ngươi”. Hẹn xong bèn dùng Thế Pháp lật đổ Thanh Luận của Đế Thích, liền phá hủy bánh xe rồi trở về thế gian. Đại Huệ! Như con rồng là Súc sinh cũng có thể dùng mỗi mỗi nghĩa cú, ngôn luận thế gian, nhân duyên thí dụ trang nghiêm để mê hoặc chư Thiên và A Tu La, khiến dính mắc kiến chấp sanh diệt, huống là loài người ư! Do đó, ngôn luận thế gian cần nên xa lìa, vì hay làm nhân sanh quả khổ, chớ nên gần gũi học tập.

    – Đại Huệ! Bọn Thế Luận chỉ nói cảnh giới thân giác mà thôi. Đại Huệ! Có trăm ngàn Thế Luận kia, sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, sẽ phá hoại sự kết tập Kinh điển, do ác giác họ thịnh hành nơi thế gian, có nhiều ác đệ tử ham thọ pháp họ. Đại Huệ! Họ dùng đủ thứ nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm để thuyết việc ngoại đạo dùng Thế Luận để phá hoại sự kết tập Kinh điển, vì tự chấp nhân duyên, chẳng có Tự Thông. Đại Huệ! Bọn Ngoại đạo kia chẳng có Tự Thông Luận, lập ra Thế Luận, rộng thuyết vô lượng trăm ngàn sự môn, chẳng thể Tự Thông, cũng chẳng tự biết ngu si, chấp Thế Luận là Chơn lý.



    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  2. #62
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Nếu ngoại đạo sở thuyết mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm của Thế Luận, do tự chấp trước, chẳng có tự thông. Thì Thế Tôn cũng thuyết thế luận vì mỗi mỗi Trời, Người, và A Tu La từ các phương đến tụ hội, Phật cũng rộng thuyết vô lượng nghĩa cú, há cũng chẳng phải không có tự thông ư! Há cũng lọt vào số ngôn thuyết trí huệ của tất cả ngoại đạo ư?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Ta chẳng thuyết Thế Luận, chẳng thuyết khứ lai, chỉ thuyết bất khứ bất lai. Đại Huệ! LAI là tụ họp, KHỨ là tan rã, CHẲNG KHỨ CHẲNG LAI là bất sanh bất diệt. Cái nghĩa của Ta thuyết chẳng đọa nơi số vọng tưởng của Thế Luận. Tại sao? Vì chẳng chấp trước ngoài tánh phi tánh, vọng tưởng nhị biên nơi tự tâm hiện chẳng thể xoay chuyển, là cảnh tướng phi tánh. Giác được tự tâm hiện thì vọng tưởng của tự tâm hiện chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì vào ba cửa giải thoát : KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, gọi là giải thoát.

    – Đại Huệ! Ta nhớ xưa kia cư trú một nơi, có Thế Luận Bà La Môn đến chổ Ta ở, chẳng màng đến Ta có rảnh hay không, bèn hỏi Ta rằng :”Cù Đàm! Tất cả pháp là sở tác ư?” Ta đáp ngay rằng : “Bà La Môn! Nói tất cả pháp sở tác là thuộc về Thế Luận thứ nhất”. Họ lại hỏi : “Tất cả pháp là phi sở tác ư?” Ta cũng đáp rằng : “Tất cả pháp phi sở tác thuộc Thế Luận thứ hai”. Họ hỏi tiếp : “Tất cả pháp thường ư? Tất cả pháp vô thường ư? Tất cả pháp sanh ư? Tất cả pháp bất sanh ư?” Ta liền đáp : “Ấy là Thế Luận từ thứ ba đến thứ sáu.”

    – Đại Huệ! Họ lại hỏi rằng : “Tất cả pháp là nhất ư? Tất cả pháp là dị ư? Tất cả pháp đồng ư? Tất cả pháp chẳng đồng ư? Tất cả pháp do mỗi mỗi thọ sanh mà hiện ư?”. Ta trọn đáp rằng : “Ấy là Thế Luận từ thứ bảy đến thứ mười một”. Đại Huệ! Họ lại hỏi : “Tất cả pháp vô ký ư? Tất cả là ký ư? Hữu ngã ư? Vô ngã ư? Có đời này ư? Chẳng đời này ư? Có đời khác ư? Chẳng đời khác ư? Có giải thoát ư? Không giải thoát ư? Tất cả là sát na ư? Tất cả chẳng là sát na ư? Là hư không ư? Là chẳng phải số diệt ư? Là Niết Bàn ư? Là do Cù Đàm tác ư? Chẳng phải tác ư? Có thân trung ấm ư? Chẳng thân trung ấm ư?” Đại Huệ! Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Những câu hỏi như thế đều là Thế Luận của ngươi, chẳng phải sở thuyết của Ta. Ta chỉ thuyết mỗi mỗi ác nghiệp tập khí vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ là nhân của tam giới, những người chẳng thể giác tri tự tâm hiện lượng mà sanh vọng tưởng phan duyên ngoài tự tánh, như pháp của ngoại đạo nói : Do ngã và căn, cảnh ba duyên hoà hợp mà có cái biết sanh khởi. Ta thì chẳng như thế. Bà La Môn! Ta chẳng thuyết Nhân, chẳng thuyết Vô Nhân, chỉ thuyết cái tánh vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp giả lập pháp duyên khởi, chẳng phải ngươi và những người chấp ngã tương tục có thể biết được.”

    – Đại Huệ! Nói NIẾT BÀN, HƯ KHÔNG, và TỊCH DIỆT chẳng phải có ba thứ, chỉ là số lượng có ba mà thôi.

    – Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng : “Do si ái nghiệp làm nhân mà có tam giới ư? Hay là vô nhân ư?” Ta đáp rằng : “Hai thứ này cũng là Thế Luận thôi”. Họ lại hỏi : “Tất cả tánh đều vào tự tướng cộng tướng ư? ” Ta lại đáp : “Đây là Thế Luận. Bà La Môn! Nói tóm lại, từ những câu hỏi của ngươi cho đến dòng suối ý thức vọng chấp ngoại trần, tất cả đều là Thế Luận.”

    – Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng : “Mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm là tông chỉ của tất cả ngoại đạo, đều thuộc Thế Luận, vậy còn có pháp nào chẳng phải Thế Luận ư? ” Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Có. Mà chẳng phải ngươi có, phi tác phi tông, phi thuyết phi bất thuyết, phi bất nhân duyên thí dụ trang nghiêm.” Bà La Môn hỏi : “Thế nào là phi Thế Luận, phi phi tông, phi phi thuyết?” Ta đáp rằng : “Bà La Môn! Có phi Thế Luận mà ngoại đạo các ngươi chẳng thể biết, vì vọng tưởng chẳng thật, hư ngụy chấp trước nơi ngoài thánh. Nói VỌNG TƯỞNG CHẲNG SANH, nếu giác liễu pháp hữu vô và tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, chẳng nhiễm ngoại trần, dứt hẳn vọng tưởng, ấy gọi là Phi Thế Luận. Đây là pháp tu chẳng phải ngươi có vậy “. Khi ấy, Bà La Môn lại lược thuyết sự nhận thức của họ, hoặc khứ hoặc lai, hoặc sanh hoặc tử, hoặc vui hoặc khổ, hoặc chìm hoặc nổi, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc hòa hợp hoặc tương tục, hoặc ái hoặc nhân ái, chấp trước đủ thứ tướng. Ta nói : ” Bà La Môn! So Đo như thế đều là Thế Luận của bọn ngươi chẳng phải ta có “. Đại Huệ! Thế Luận Bà La Môn hỏi như thế, ta đáp như thế, họ liền im lặng chẳng từ giả mà lui ra, lại còn suy tư chỗ Tự Thông mà nghĩ rằng : “Sa Môn Thích thử vượt ra ngoài tướng thông, nói Vô Sanh, Vô Tướng, Vô Nhân, giác được tướng hiện của tự vọng tưởng thì vọng tưởng chẳng sanh.” Đại Huệ! Đây tức là chỗ ngươi hỏi Ta “Tại sao nói gần gũi Thế Luận đủ thứ biện luận, là nhiếp thọ tham dục, chẳng nhiếp thọ pháp?”

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Nhiếp thọ tham dục và pháp có nghĩa cú gì?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Ngươi khéo vì chúng sanh đời vị lai tư duy xin hỏi nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì người mà thuyết, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

    Đại Huệ Bồ Tát bach Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Đối với nghĩa THAM, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, đọa tà kiến nhị biên, do đó luân hồi tương tục, lại sanh ngũ ấm, sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sanh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế Luận, thành kẻ Thế Luận. Ta và chư Phật nói là THAM, ấy gọi nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ pháp.

    – Đại Huệ! Thế nào là Nhiếp Thọ Pháp? Là khéo thấu rõ tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngã và pháp Vô Ngã thì vọng tưởng chẳng sanh, khéo biết từng bậc tiến lên chư Địa của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí huệ quán đảnh, trọn vẹn nhiếp thọ Thập Vô Tận Cú, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là PHÁP, nghĩa là chẳng đọa tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên, v.v… Đại Huệ! Có nhiều hạng si mê ngoại đạo nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí huệ. Chấp thọ Vô Nhân Luận thì sanh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sanh khởi đoạn kiến. Đại Huệ! Ta chẳng thấy sanh, trụ, diệt, nên nói là PHÁP. Đại Huệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Tất cả thế gian luận

    Là Ngoại đạo vọng thuyết.

    Vọng thấy tác sở tác,

    Thuyết họ chẳng tự thông.

    Duy nhất Tự Tông Ta,

    Lìa nơi tác sở tác.

    Vì các đệ tử thuyết,

    Xa lìa những Thế Luận.

    Tâm Lượng chẳng thể thấy,

    Nhiếp sở nhiếp phi tánh.

    Chẳng quán sát hai tâm,

    Đoạn thường thảy đều lìa.

    Ngoại đạo tâm lưu chuyển.

    Ta gọi là Thế Luận.

    Người vọng tưởng chẳng chuyển,

    Người ấy thấy tự tâm,

    LAI thì có sự sanh,

    KHỨ thì sự chẳng hiện.

    Thấu rõ việc khứ lai,

    Thì vọng tưởng chẳng khởi.

    Hữu thường và vô thường,

    Năng tác và sở tác,

    Đời này hay đời sau,

    Đều là Thế Luận Thông.
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  3. #63
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Phật nói NIẾT BÀN, pháp nào gọi là Niết Bàn? Mà các Ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh khởi vọng tưởng khác nhau?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Như vọng tưởng Niết Bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo diệt ấm, giới,nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.

    – Đại Huệ! Hoặc có Ngoại đạo cho “từ phương này đến phương kia” gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có Ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự tánh, ví như Minh Sơ (1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu Na dụ cho vi trần, cho Cầu Na là tác giả, nói từ vi trần sanh tứ đại, cũng như từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp có Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết Bàn.



    (1) MINH SƠ : Thuật ngữ, Số Luận sư lập hai mươi lăm đế, đế thứ nhất là Minh Đế, vì Minh Đế là ban sơ của các pháp, nên gọi là Minh Sơ.
    (2) CẦU NA : Dịch là y chỉ, là thật thể của tứ đại mà sanh ra các đức dụng của sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… Còn ở Thập Cú Nghĩa Luận thì nói gồm hai mươi bốn đức. Ngoài ra, Số Luận nói gồm có ba đức : Vui, buồn và ám muội.






    https://www.facebook.com/profile.php?id=100021315279907
    [/center]
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  4. #64
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    – Hoặc có ngoại đạo nói hết phước và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc thấy Cõi Trời Tự Tại là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử, cho là Niết Bàn. Hoặc nói chúng sanh ở nơi này chết thọ sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết Bàn. Hoặc nói từ tự tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý, ý sanh trí, trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ tri căn sanh ngũ nghiệp căn, ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại, gọi là hai mươi lăm Minh Đế của tự tánh, hay sanh các pháp rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh Đế này cho là đắc đạo Chơn Đế, tưởng là Niết Bàn.

    – Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp sanh khởi công đức ( như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần là năng tác, thế giới là sở tác, tức là công đức ), cho là Niết Bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai nhọn, như sự lộng lẫy của con công và đủ thứ bửu vật, chẳng có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết Bàn.

    – Đại Huệ! Hoặc có hai mươi lăm Minh Đế là chơn thật, và cho Lục Đức Luận

    ( 1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ Đại, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị ) là nhân sanh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến được an lạc tức là Niết Bàn. Hoặc cho thời gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng là Niết Bàn. Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết Bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết Bàn. Đủ thứ vọng tưởng so đo chấp trước của ngoại đạo sở thuyết, nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này vậy.


    Lần sửa cuối bởi cát bụi; 03-26-2022 lúc 05:33 AM
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  5. #65
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    – Đại Huệ! Niết Bàn vọng tưởng của ngoại đạo, tất cả đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết Bàn. Mỗi mỗi Niết Bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc trí huệ quán sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai, trôi giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập, thật thì chẳng có kẻ đắc Niết Bàn.

    – Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của Ngoại đạo.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  6. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoangtri (03-26-2022)

  7. #66
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN THỨ BA

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........

    – Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của Ngoại đạo.

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Niết Bàn của ngoại đạo,

    Mỗi mỗi sanh vọng tưởng.

    Vọng tưởng từ tâm khởi,

    Chẳng cách nào giải thoát.

    Không dây mà tự trói,

    Xa lìa phương tiện khéo.

    Dù tưởng là giải thoát,

    Thật chẳng thể giải thoát.

    Tướng thông của ngoại đạo,

    Nhiều loại trí khác nhau.

    Vì ngu si vọng tưởng,

    Giải thoát chẳng có phần.

    Tất cả ngoại đạo kia,

    Vọng thấy tác, sở tác.

    Chấp hữu, vô lập luận,

    Thảy đều chẳng giải thoát.

    Phàm phu ham vọng tưởng,

    Chẳng nghe pháp chơn thật.

    Chơn thật diệt nhân khổ,

    Tam giới gồm ba khổ :

    Khổ khổ và hoại khổ,

    Hành tam ác đạo khổ.

    Ví như tượng trong gương,

    Dù hiện mà chẳng thật.

    Vọng tưởng nơi tâm gương,

    Phàm phu sanh nhị kiến.

    Chẳng biết tâm và duyên,

    Sanh vọng tưởng nhị biên.

    Liễu tâm và cảnh giới,

    Thì vọng tưởng chẳng sanh.

    Tâm thể tức vạn pháp,

    Sự hiện mà chẳng hiện.

    Xa lìa tướng sở tướng

    Như phàm phu phân biệt.

    Vọng tưởng sanh tam giới,

    Vọng hiện đủ thứ tướng.

    Đều chẳng có nghĩa thật,

    Mà kẻ ngu chẳng biết.

    Chư kinh nói vọng tưởng,

    Chẳng ra ngoài giả danh.

    Nếu lìa nơi ngôn thuyết,

    Phật nói Vô Sở thuyết.


    Lần sửa cuối bởi cát bụi; 03-28-2022 lúc 05:51 AM
    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  8. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoatihon (03-27-2022)

  9. #67
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN BỐN

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........


    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Cúi xin vì chúng sanh thuyết Tam Miệu Tam Phật Đà, khiến con và các Đại Bồ Tát đối với tự tánh của Như Lai, khéo tự giác và giác tha.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Cho ngươi tùy ý hỏi,Ta sẽ tùy sự hỏi của ngươi mà thuyết.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là tác hay chẳng tác? Là sự ư? Là nhân ư? Là tướng ư? Là sở tướng ư? Là thuyết ư? Là sở thuyết ư? Là giác ư? Là sở giác ư? Những từ ngữ như thế là khác hay chẳng khác?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đối với những từ ngữ này Phi sự cũng Phi nhân. Tại sao? Vì đều có lỗi. Đại Huệ! Nếu Như Lai là SỰ, hoặc tác hoặc vô thường; nếu nói vô thường thì tất cả sự đều là Như Lai, Ta và chư Phật chẳng cho như thế. Nếu chẳng phải sở tác, là Vô Sở đắc, pháp phương tiện thành không, đồng như sừng thỏ, như con của Thạch Nữ, vì chẳng có gì cả. Đại Huệ! Nếu Vô Sự Vô Nhân thì phi hữu phi vô. Nếu phi hữu phi vô thì lọt vào tứ cú; tứ cú là ngôn thuyết của thế gian,nếu lìa tứ cú thì chẳng đọa tứ cú, vì chẳng đọa tứ cú là chứng đắc của bật trí, nghĩa cú của tất cả Như Lai cũng như thế. Đại Huệ nên biết,như Ta sở thuyết, tất cả pháp Vô Ngã. Nếu biết nghĩa Vô Ngã là tánh vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh, chẳng tha tánh như trâu ngựa. Đại Huệ! Ví như con trâu chẳng có tánh ngựa, con ngựa chẳng có tánh trâu. Kỳ thật phi hữu phi vô, nghĩa ấy chẳng phải không có tự tánh. Như thế, Đại Huệ! Tất cả các pháp chẳng phải không có tự tướng, có tự tướng nhưng Vô Ngã, chẳng phải phàm phu dùng vọng tưởng có thể biết. Nói tất cả pháp Không, Vô Sanh, Vô Tự Tánh, nên biết nghĩa như trên.

    – Như Lai nói ngũ ấm chẳng phải khác chẳng phải không khác. Nếu chẳng khác tức là vô thường, nếu khác thì phương tiện thành không. Nếu cho là hai thì phải có khác, như sừng trâu, mỗi mỗi tương tự nên chẳng khác; có dài ngắn sai biệt nên có khác, tất cả pháp cũng như thế. Đại Huệ! Như sừng trâu bên phải khác với sừng trâu bên trái, sừng bên trái khác với sừng bên phải, đủ thứ sắc tướng dài, ngắn mỗi mỗi khác nhau cũng như thế. Đại Huệ! Như Lai nói ấm giới nhập chẳng phải khác hay không khác. Do đó, pháp sở thuyết cuả Như Lai gọi là giải thoát. Nếu Như Lai khác với giải thoát, ắt phải do sắc tướng tạo thành. Nếu do sắc tướng tạo thành thì vô thường, nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng giải thoát không thể phân biệt,mà người tu hành thấy có phân biệt,cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác,cũng như trí và nhĩ diệm, chẳng phải khác hay chẳng khác.

    – Đại Huệ! Nói “Trí và nhĩ diệm chẳng phải khác hay chẳng khác ” là phi thường phi vô thường, phi tác phi sở tác, phi hữu vi phi vô vi, phi giác phi sở giác, phi tướng phi sở tướng, phi ấm phi khác với ấm, phi thuyết phi sở thuyết, phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng. Vì phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng, nên lìa tất cả lượng. Lìa tất cả lượng thì vô ngôn thuyết, vô ngôn thuyết thì vô sanh,vô sanh thì vô diệt, vô diệt thì tịch diệt, tịch diệt là tự tánh Niết Bàn, tự tánh Niết Bàn là vô sự vô nhân, vô sự vô nhân thì chẳng có phan duyên, chẳng có phan duyên thì siêu việt tất cả hư ngụy; siêu việt tất cả hư ngụy tức là Như Lai, Như Lai tức là Tam Miệu Tam Phật Đà. Đại Huệ! Tam Miệu Tam Phật Đà của Phật Đà lìa tất cả căn lượng.

    Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

    Pháp lìa chư căn lượng,

    Vô sự cũng Vô Nhân.

    Đã lìa giác sở giác,

    Cũng lìa tướng sở tướng.

    Ấm duyên đồng chánh giác,

    Nhất dị chẳng thể thấy.

    Nếu thật chẳng thể thấy,

    Thì làm sao phân biệt?

    Phi tác phi bất tác,

    Phi sự cũng phi nhân.

    Phi ấm phi lìa ấm,

    Cũng chẳng có pháp khác.

    Chẳng phải có các tánh,

    Như vọng tưởng họ thấy.

    Mỗi mỗi pháp cũng thế,

    Phi hữu cũng phi vô.

    Vì hữu nên nói vô,

    Vì vô nên nói hữu.

    Nếu VÔ chẳng thể lập,

    Thì HỮU làm sao có!

    Hoặc nơi ngã, phi ngã,

    Lưu luyến theo ngôn thuyết.

    Chìm đắm nơi nhị biên,

    Tự hoại, hoại thế gian.


    Tạo lỗi chướng giải thoát,

    Tướng Thông ta quán sát.

    Chẳng báng Đại Đạo Sư,

    Ấy gọi là chánh quán.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  10. #68
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN BỐN

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........


    Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

    – Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết khế kinh, nói nhiếp thọ bất sanh bất diệt; Thế Tôn cũng nói bất sanh bất diệt là biệt danh của Như lai. Taị sao Thế Tôn vì vô tánh mà nói bất sanh bất diệt cho là biệt danh của Như Lai?

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Ta nói tất cả pháp Bất sanh Bất diệt là chẳng hiện pháp HỮU và VÔ.

    Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

    – Nếu tất cả pháp bất sanh thì pháp Nhiếp Thọ bất khả đắc,vì pháp nhiếp thọ bất sanh. Nếu tất cả pháp bất sanh thì làm sao trong danh tự có pháp? Cúi xin Phật thuyết rõ.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải thuyết.

    Đại Huệ BồTát bạch Phật rằng :

    – Cúi xin thọ giáo.

    Phật bảo Đại Huệ :

    – Ta nói Như Lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sanh bất diệt, nhiếp tất cả pháp, cũng chẳng đợi duyên mà bất sanh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa. Đại Huệ! Ta nói ý sanh pháp thân là danh hiệu của Như Lai, nói BẤT SANH kia, chẳng phải cảnh giới cuả tất cả ngoại đạo Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến Thất Trụ Bồ Tát.


    Đại Huệ! Nghĩa BẤT SANH kia tức biệt hiệu của Như Lai. Đại Huệ! Ví như lưới báu Nhân Đà La của Đế Thích và Bất Nhân Đà La, các vật ấy mỗi mỗi có nhiều tên gọi, nhưng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải không có tự tánh.

    – Như thế, Đại Huệ! Ta ở nơi thế giới Ta Bà này có ba A Tăng Kỳ trăm ngàn danh hiệu, phàm phu thảy đều nghe, mỗi mỗi xưng danh hiệu ta mà chẳng biết là biệt danh của Như Lai Ta. Đại Huệ! Hoặc có chúng sanh biết Ta là Như Lai, hoặc biết ta là Nhất Thiết Trí, hoặc biết là Phật, hoặc biết là Người Cứu Thế, hoặc biết là Người Tự Giác, hoặc biết là Đạo Sư, hoặc biết là Quảng Đạo, hoặc biết là tất cả đạo, hoặc biết là Thiên Nhơn, hoặc biết là Phạn ( người thanh tịnh ), hoặc biết là Trời, hoặt biết là Tự Tại, hoặc biết là thù thắng, hoặc biết là Tiên Nhơn Tóc Vàng, hoặc biết là Chơn Thật, hoặc biết là mặt trăng, hoặc biết là mặt trời, hoặc biết là Chúa Tể, hoặc biết là Vô Sanh, hoặc biết là Vô Diệt, hoặc biết là Tánh Không, hoặc biết là Như Như, hoặc biết là Chơn Đế, hoặc biết là Thật Tế, hoặc biết là Pháp Tánh, hoặc biết là Niết Bàn, hoặc biết là Thường, hoặc biết là Bình Đẳng, hoặc biết là Bất Nhị, hoặc biết là Vô Tướng, hoặc biết là Giải Thoát, hoặc biết là Đạo, hoặc biết là Sanh v.v… Đại Huệ! Ba A Tăng Kỳ trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết Ta, như mặt trăng trong nước chẳng xuất chẳng nhập. Phàm phu chẳng thể biết Ta, vì đọa nơi nhị biên, nhưng đều cung kính cúng dường Ta,mà chẳng khéo biết từ ngữ danh cú, chẳng có tự thông, chẳng phân biệt được tên và nghĩa, lại chấp trước mỗi mỗi văn tự ngôn thuyết, nơi bất sanh bất diệt cho là Vô Tánh, chẳng biết danh hiệu sai biệt của Như Lai dù nhiều mà nghĩa vốn chẳng sai biệt, như một Đế Thích cũng có nhiều danh hiệu vậy. Vì chẳng biết tự thông hội về căn bản, nên đối với tất cả pháp, đuổi theo ngôn thuyết mà chấp trước.

    – Đại Huệ! Bọn ngu si kia nói như thế rằng : ” Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với ngôn thuyết chẳng khác. Tại sao? Vì nghĩa chẳng tự thân, ngoài ngôn thuyết chẳng có nghĩa khác, chỉ là ngôn thuyết thôi “. Họ bị ác kiến đốt trí, chẳng biết ngôn thuyết tự tánh, chẳng biết ngôn thuyết là sanh diệt, nghĩa thì chẳng sanh diệt. Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đọa nơi văn tự, nghĩa thì chẳng đọa, vì lìa tánh phi tánh, nên chẳng thọ sanh, cũng chẳng tự thân. Đại Huệ! Như Lai chẳng thuyết pháp đọa văn tự, vì văn tự hữu và vô đều bất khả đắc.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  11. #69
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN BỐN

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........


    – Đại Huệ! Nếu có ai nói Như Lai thuyết pháp đọa văn tự, ấy là vọng ngữ, vì pháp lìa văn tự. Cho nên Đại Huệ! Ta cùng chư Phật và các Bồ Tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp môt chữ. Tại sao? Vì pháp lìa văn tự chứ chẳng phải Ta thuyết cái nghĩa không lợi ích cho chúng sanh. Ta chỉ nói ngôn thuyết là vọng tưởng cuả chúng sanh. Đại Huệ! Nếu ta chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ hoại, nếu giáo pháp hoại thì chẳng có chư Phật, Bồ Tát và Thanh Văn, Duyên Giác,vậy còn ai thuyết pháp cho ai?

    – Cho nên, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chớ chấp ngôn thuyết mà phương tiện tùy nghi rộng thuyết Kinh pháp. Do chúng sanh phiền não hy vọng chẳng đồng, nên Ta và chư Phật vì mỗi mỗi hiểu biết khác nhau của chúng sanh mà thuyết các pháp, khiến họ lìa tâm, ý, ý thức, chẳng thuyết chỗ đắc Tự Giác Thánh Trí.

    – Đại Huệ! Nơi tất cả pháp vốn Vô Sở Hữu, nếu giác được tự tâm hiện lượng thì lìa được hai thứ vọng tưởng, chư Đại Bồ Tát dựa theo nghĩa này mà chẳng dựa theo văn tự. Nếu thiện nam, tín nữ dựa theo văn tự, là tự hoại Đệ Nhất Nghĩa, chẳng thể tự giác cũng chẳng thể giác tha, đọa nơi ác kiến tương tục mà vì chúng thuyết pháp, chẳng khéo liễu tri tất cả pháp tất cả địa tất cả tướng, cũng chẳng biết nghĩa cú. Nếu khéo biết tất cả Pháp, tất cả Địa, tất cả Tướng, thông đạt nghĩa cú, tánh nghĩa đầy đủ thì họ được dùng sự vui vô tướng của Chánh Pháp mà tự thọ sự vui, kiến lập Đại thừa bình đẳng cho chúng sanh.

    – Đại Huệ! Người nhiếp thọ Đại thừa thì nhiếp thọ Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Vì nhiếp thọ chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác thì nhiếp thọ tất cả chúng sanh, nhiếp thọ tất cả chúng sanh thì nhiếp thọ chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp thì Phật chủng chẳng dứt, Phật chủng chẳng dứt thì hay liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng. Liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng ấy là Đại Bồ Tát thường được ý sanh hóa thân, tùy nghi kiến lập pháp Đại thừa bình đẳng, dùng sức Thập Tự Tại (1) hiện nhiều sắc tướng, thông đạt hình loại phiền não, các tướng hy vọng của chúng sanh mà thuyết pháp như thật. Nói NHƯ THẬT tức là chẳng có khác biệt, tướng như thật là bất khứ, bất lai, tất cả hư ngụy đều dứt, gọi là Như Thật. Đại Huệ! Thiện nam, tín nữ chẳng nên nhiếp thọ sự tùy ngôn thuyết chấp trước, vì nghĩa chơn thật lìa nơi văn tự.

    (1) THẬP TỰ TẠI LỰC : Nói tắt là Thập Lực, là mười thứ sức tự tại của Như Lai. Ấy là:

    1.- Chỗ tri giác chẳng phải chỗ trí lực. Sự biết nghĩa lý của các vật là do sức tự tại của tự tâm tự biết, chẳng phải do trí lực mà biết.

    2.- Sức tự tại biết nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sanh nơi tam thế.

    3.- Sức tự tại biết các thứ thiền định Giải thoát Tam muội.

    4.- Biết mỗi mỗi tri giải trí lực của tất cả chúng sanh.

    5.- Biết mỗi mỗi cảnh giới chẳng đồng cuả chúng sanh thế gian.

    6.- Biết phổ biến tất cả pháp đúng như thật tế.

    7.- Biết mỗi mỗi hành và nhân của các pháp thế gian hữu lậu và các pháp Xuất thế gian Vô lậu từ Ngũ giới Thập thiện cho đến Niết bàn.

    8.- Có Thiên nhãn vô ngại, thấy biết nghiệp duyên thiện ác và sanh tử của tất cả chúng sanh.

    9.- Biết Túc mạng và Vô lậu Niết Bàn của tất cả chúng sanh.

    10.- Biết tất cả tập khí mê vọng, dứt hẳn chẳng sanh, đúng như thật tế. Gọi là Thập Tự Tại Lực.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

  12. The Following User Says Thank You to cát bụi For This Useful Post:

    hoatihon (03-30-2022)

  13. #70
    Avatar của cát bụi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    249
    Thanks
    210
    Thanked 119 Times in 66 Posts
    KINH LĂNG GIÀ
    Dịch giả: H.t Thích Duy Lực
    __________________________________________________ ______________________________________


    QUYỂN BỐN

    PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

    ........


    – Đại Huệ! Cũng như phàm phu dùng ngón tay chỉ vật, mà chỉ quán theo ngón tay thì chẳng được nghĩa thật. Cũng thế, nếu phàm phu tùy theo ngôn thuyết của ngón tay mà nhiếp thọ chấp trước thì rốt cuộc chẳng thể đắc Đệ Nhất Nghĩa thật lìa ngón tay ngôn thuyết. Đại Huệ! Ví như nuôi trẻ nhỏ, nên cho ăn đồ chín, không nên cho ăn đồ sống, nếu cho ăn đồ sống thì có thể khiến nó phát bệnh. Người đuổi theo ngôn thuyết vì chẳng biết thứ lớp phương tiện cuả nghĩa pháp chín mùi cũng như thế. Do đó, Đại Huệ! Đối với pháp Bất sanh Bất diệt, người tu chẳng biết phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ. Cho nên, Đại Huệ! Người tu nên khéo biết phương tiện nơi nghĩa chơn thật, nghĩa chơn thật là nhân của Niết Bàn vi diệu tịch tịnh, ngôn thuyết là vọng tưởng hòa hợp, vọng tưởng là tích tụ sanh tử.

    – Đại Huệ! Nghĩa chơn thật là từ người đa văn mà đắc. Đại Hụê! Nói ĐA VĂN là thấu nơi nghĩa, chẳng phải ở nơi ngôn thuyết. Nói THẤU NGHĨA thì chẳng theo kinh luận của tất cả ngoại đạo, tự thân chẳng theo, cũng chẳng khiến người khác theo, ấy gọi là Đại Đức Đa Văn. Cho nên người muốn cầu nghĩa nên thân cận bậc đa văn thì thấu được nghĩa. Trái với nghĩa này tức là chấp trước ngôn thuyết, nên phải xa lìa.


    Ta còn để lại gì không ?
    Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Kinh thủ lăng nghiêm trực chỉ
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 263
    Bài cuối: 09-07-2020, 04:06 PM
  2. Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan
    Gửi bởi Tuệ Thức trong mục Kinh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-24-2019, 04:14 AM
  3. Trả lời: 12
    Bài cuối: 10-06-2017, 12:09 PM
  4. Kinh Thủ Lăng Nghiêm _ Thiền sư Thích Từ Thông giảng!
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 3
    Bài cuối: 09-09-2016, 03:44 PM
  5. Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại sư Pháp Vân giảng)
    Gửi bởi vietlong trong mục Giáo lý Đại Thừa
    Trả lời: 151
    Bài cuối: 09-08-2015, 11:04 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •