KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
Dịch giả: Sa môn Thích Đàm Cảnh
__________________________________________________ ______________________________________


Phật bảo vua rằng: "Quả báo của Tiên Vương, nay ở trong địa ngục. Sở dĩ vì sao? Vì rằng sanh ra không gặp thiện thời, không gặp thiện hữu và không gặp thiện phương tiện, tuy tu các công đức mà không đặng khỏi tội. Nhưng mà cái công đức bố thí kia không mất đi đâu, chừng nào tội hết mới đặng hưởng phước".

Đại vương phải biết: "Luận như người tu phước không chuộc được tội, vì không chuộc được tội nên cần phải có phương tiện mới chuộc được tội".

Phương tiện là gì? Nghĩa là ông Thiện tri thức. Sao gọi là thiện hữu? Nghĩa là người chánh kiến ấy là thiện hữu. Thường đem lời chánh điều phục tâm mình.

Chánh giáo là gì? Nghĩa là dạy quán pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và mười hai nhân duyên trói buộc đường sanh tử. Và tu pháp Tứ Chơn đế; thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, thực hành sáu pháp Ba La Mật và Tứ Vô Lượng Tâm, thế mới gọi là phương tiện điều phục các căn, vì điều phục các căn nên định huệ được thành tựu, vì định huệ được thành tựu nên tâm mình được ngay thẳng, vì tâm mình được ngay thẳng nên sanh ra tinh tấn. Vì tâm tinh tấn nên hay sanh ra sự giữ giới, vì giữ giới được hoàn toàn nên định huệ sáng tỏ, vì huệ được sáng tỏ nên làm đủ muôn hạnh thông suốt không ngăn ngại, vì muôn hạnh thông suốt không ngăn ngại cho nên kêu là giải thoát, mà cái tâm giải thoát đó tức là Niết bàn vậy. Thế cho nên mới kêu là Thiện tri thức vậy.

Đại vương phải biết: Minh sư dắt dẫn thật là một nhân duyên lớn, không nên khinh vậy. Đại vương nay được gặp Hiền Thánh, đều nhờ nhân duyên quả báo đời trước, nên đời nay nghe pháp tin hiểu, lại có tài năng làm cho người tin hiểu. Thế nên Ta nói người sáng khó gặp, như có một người không ai sánh kịp, người đó sanh ra chỗ nào, thân tộc nhờ phước, thế nên phải tu Bát Nhã trí huệ".

Vua bạch Phật rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Con nghe Thế Tôn nói trí huệ phương tiện, tâm con đèu được thông suốt, theo như lời của Đức Thế Tôn đã nói họa phước chẳng đồng, nhưng mà không biết Tiên Đế của con, có cái ác nghiệp chi và chịu khổ báo gì?".

Phật bảo vua rằng:"Tiên đế của Đại vương có sáu món tội. Sao gọi là sáu món tội?.

Một tội là: Ngạo mạn, nhơ bẩn, không luận việc nhỏ hay lớn, đánh phạt ngang tàng, vì không nhẫn nhịn vậy. Hai tội là: Tham nhận của báu, xử đoán không công, làm cho thiên hạ kêu rêu oán hận. Ba tội là: Vui chơi, săn bắn làm khốn khổ nhân dân, tàn sát chúng sanh những loài tiếc mạng sống. Bốn tội là: Giam cầm cung nữ, không đặng vừa ý, chịu nhiều khổ não. Năm tội là: Đắm mê nữ sắc, mới chuộng cũ vong, ăn ở bất bình, sanh ra oán hận. Sáu tội là: Sợ các thầy Bà-la-môn, ăn vụng rượu thịt, hành, tỏi, ngũ vị tân; sợ kia quở trách, dối trá du bợ, ấy gọi là sáu việc tội nghiệp nhân duyên sanh trong địa ngục.

Vua bạch Phật rằng: "Nếu đã như vậy đó thì khi Phật chưa ra đời. Đệ tử này cũng có tội như thế, vậy bây giờ phải làm sao tu pháp Thập thiện cho được thành tựu không ngăn ngại ư?".

Phật bảo vua rằng: "Như Ta trước đã nói, khi ánh mặt trời mọc ra thì các tối tiêu hết hay là còn tối chăng?"

Vua bạch Phật rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Ánh sáng của đèn còn có thể diệt được tối tăm, huống chi oai thế của ánh sáng mặt trời rất mạnh vậy".

Phật nói rằng: "Nay vua có phước đức nghe Ta nói pháp thành tựu trí huệ, ví như ánh sáng mặt trời tiêu diệt hết các sự tối tăm, không còn tội lỗi vậy".

Vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng: "Cha con tôn thờ những thầy Bà-la-môn tinh tấn trí huệ, tu tập khổ hạnh, là vì cầu phước không tiếc thân mạng, hoặc có khi gieo mình xuống núi, năm món nóng háp thân, hoặc bỏ ăn uống để cầu sanh về cõi Phạm Thiên hoặc chất củi thiêu sống thân mình, hoặc co giò hả miệng hớp ánh sáng mặt trời, hoặc leo lên cây cao, lấy dây buộc chân rồi thòng đầu xuống, hoặc nằm trên chông gai, rinh đá đè lên bụng có như vậy v.v... biết bao là khổ hạnh. Nhưng mà không biết nhân duyên phước đức, công tu khổ hạnh sẽ về chỗ nào?"

Phật đáp rằng: "Như Ta đã nói trước, làm khổ chịu quả báo khổ, làm vui được quả báo vui, vua không nghe sao?".

Vua nói rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Như vậy thời Thế Tôn bắt các hàng đệ tử phải trì cấm giới đâu chẳng phải là khổ ư? Vì sao? Vì luận như người trong lúc đói không được ăn liền, đâm ra phiền não, tức giận nổi lộn không còn biết chi là chi, chỉ muốn làm hại giết Tu Ca la, những việc như thế nên chịu khổ nhiều đời, đâu chẳng phải là ác sao?".

Phật bảo vua rằng: "Ta trước sở dĩ hạn chế cho ăn giữa giờ ngọ ấy là vì hai lẽ. Một là: Vì cá Tỳ - kheo bỏ pháp ngoại đạo vào trong pháp Ta xuất gia tu hành, vì tâm chịu đói khát, khổ hạnh trước đã quen. Hai là: Các ông đệ tử đặng món ăn ngon lành (béo) tham ăn quá no, vì ăn không tiết độ nên sanh ra các bệnh. Thế nên Ta hạn chế sự ăn, chẳng phải là vì chịu đói chịu khổ, để cầu phước đức vậy.

Lại nữa có giờ khắc, đó là vì Ta thấy các thầy Tỳ - kheo, ngày đêm nghiễu nghện đi xin ăn, ăn không có giờ khắc, làm cho bọn ngoại đạo nó chê trách và nói rằng:"Cù Đàm Sa môn tự nói đạo mình là tinh tấn, mà sao không bằng pháp ngoại đạo. Thế nên Ta bắt ăn có giờ, chớ chẳng phải bắt chịu đói chịu khổ để cầu phước vậy.

Nói tóm lại là Ta bắt giữ cấm giới, chính vì người ngu si không huệ phương tiện, chớ chẳng phải là hạng người trí huệ biết rõ thời nghi vậy.

Như Ta trước đã nói:Bát Nhã trí huệ tức là sức giải thoát chỗ đó là chỗ thực hành của bậc Thánh Hiền mà người trí cần phải vâng làm".

Vua nghe lời ấy rồi càng thêm hoan hỷ liền đứng dậy cung kỉnh, vì Phật làm lễ, tất cả đại chúng cũng đồng như vậy.