KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN Dịch giả: Sa môn Thích Đàm Cảnh
__________________________________________________ ______________________________________
Nếu là người có trí tuệ,
Không khoe mình ai cũng biết.
Như thế là kẻ đa văn,
Như mặt trời soi trong thế gian.
(Không khoe mình là sáng, mà ai cũng biết là sáng)
Kẻ vừa nghe (biết) chút ít,
Tự khoe mình là lớn.
Như mù cầm đuốc soi,
Chiếu ai chớ mình không sáng.
Khi bấy giờ, Phú Lầu Na nghe Ta nói lời ấy rồi bỗng nhiên tâm ngộ, liền bỏ đuốc cổi đồng, năm vóc gieo sát đất, hổ thẹn xin lỗi. Vì do ông là người đa văn, trí hụê các căn thông lợi, cho nên trong khi lạy xuống chưa đứng dậy mà dã dữt đặng phiền não trong ba cõi được quả A La Hán. Sức trí huệ đó thí cũng như câu móc điều phục con voi, voi tùy theo móc mà đi.
Đại vương phải biết rằng: Luận như người tập đọc, đều nhờ ngăn cấm năm tình, mới được thông suốt không chỗ ngăn ngại. Vì chỗ không ngăn ngăn ngại nên gọi là Vô ngại trí. Vô ngại trí ấy đủ có bốn biện tài vậy. Nay Phú Lầu Na đủ có bốn món biện tài, đều nhờ khiêm tốn cần khổ học tập mới được. Thế cho nên Ta nói: Luận như người huệ giải có bảy món của. Sao gọi là bảy?
Một là: Tín tài.
Hai là: Tinh tấn.
Ba là: Trì giới
Bốn là: Tàm quý.
Năm là: Đa văn.
Sáu là: Hành xả.
Bảy là: Định huệ.
Ấy là bảy món của; bà Mạt Lợi Phu nhân có đủ bảy món của ấy.
Đại vương phải biết, Mạt Lợi Phu nhân tuy là thân nữ, mà tài cao trí rộng, chẳng phải như người phàm, đều nhờ hồi còn trẻ đến giời, giữ gìn cẩn thận thân, khẩu, ý nghiệp, nhất tâm chuyên niệm, tu tập trí huệ, vì cái sức trí huệ nên gọi là sức giải thoát; rồi đem trí tuệ bày tỏ khắp trong thiên hạ.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn, nhân Sa-di La Hầu La và cả đại chúng mà nói bài tụng rằng:
Đa văn là chim cánh vàng
Oai thế võ lực mạnh
Vân là kho hành bảo
Ở đâu lợi ích đấy
Văn là cầu cống to
Cứu khỏi mọi khổ ách
Văn là thuyền lái lớn
Đưa qua biển sanh tử
Đa văn chí được sáng
Vì sáng trí huệ thêm
Trí huệ hiểu (rõ) nghĩa rộng
Thấy nghe tu đúng pháp
Đa văn trừ được não
Hay dùng định làm vui
Khéo giải pháp cam lồ
Từ đó được Niết bàn
Văn là biết pháp luật
Hết nghi thấy được chánh
Nhờ văn bỏ phi pháp
Đi đến chỗ bất tử
Tiên nhân kính thờ văn
Chư Thiên lại cũng thế
Giữ tâm không buông lung
Đa văn thành Thánh trí
Trí huệ trừ lo giận
Cũng dẹp thói tà phi
Người muốn cầu yên ổn
Phải tôn thờ người trí (sáng suốt)
Mù từ đây được mắt
Như trong tối được đuốc,
Mở lối cho người đời
Như người sáng dắt người tối
Thế là bỏ ngu si
Ly, mạn, hào, phú, lạc
Chăm học thờ Minh sư
Ấy gọi là người đức.