DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 29
  1. #1
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi bấy giờ, Giả Can thấy các người Trời ân cần khuyến thỉnh và ưa muốn nghe pháp thì lòng vui mừng bội phần. Liền bảo Thiên đế rằng: "Ta nhớ nghĩ thuở xưa Ta từng thấy người đời, những người muốn nghe pháp, thì trước phải sửa sang một cái tòa cao, trang sức thanh tịnh, mới thỉnh Pháp sư lên ngồi thuyết Pháp. Vì sao? - Bởi Kinh Pháp là quý trọng, kỉnh đó thời được phước, chớ nên đem cái tâm khinh, mà bị tổn phước". Chư Thiên nghe rồi ai nấy nói rằng: "Xin vâng". Liền cởi áo Thiên bảo chồng lại thành một cái tòa cao, chỉ trong giây phút đã được trang sức tôn nghiêm thanh tịnh bậc nhất.

    Khi đó, Giả Can lên tòa, bảo Thiên đế rằng: "Ta nay nói Pháp chính là vì hai sự nhân duyên rất lớn: Thế nào gọi là hai: 1- Là vì thuyết pháp khai hóa cõi Thiên thì được phước không lường. 2- Là vì cái ơn thí cho ăn không nói sao được". Thiên đế thưa rằng: "Cứu khỏi nạn chết dưới giếng được toàn thân mạng thì cái công ơn rất lớn. Thế nào Tôn giả lại nói cái ơn đó không bằng cái ơn thuyết pháp. Sở dĩ vì sao?" Hòa thượng phải biết rằng: "Tất cả trong thiên hạ ai cũng ưa sống cầu an, không ai muốn chết cả. Do vì nhân duyên ấy nên cái công ơn cứu toàn thân mạng há đặng không lớn hay sao?".

    Giả Can đáp rằng: "Cái sự thích hợp sống chết phải chăng của mỗi người đều có khác. Hoặc có người tham sống, hoặc có người ưa chết. Kẻ nào tham sống, là kẻ sống trong đời ngu si mờ ám chẳng biết chết rồi lại có sanh ra đời sau, trái Phật xa Pháp, không gặp Minh sư, làm việc sát, đạo, dâm, dối, chỉ gặp ác là theo, những người như thế là người tham sống sợ chết. Trái lại, người nào ưa chết, muốn gặp Minh sư, phụng sự ngôi Tam Bảo, cải dữ làm lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Thầy Tổ, hòa thuận vợ con, tôi tớ quyến thuộc đều được khiêm nhường cung kỉnh mọi người, những người như vậy là người ghét sống ưa chết. Sở dĩ vì sao? Vì người lành chết đi, nhờ phước được sanh lên cõi trời hưởng năm điều dục lạc. Còn người dữ chết đi sẽ vào địa ngục chịu khổ không cùng. Người lành ưa chết, như tù ra khỏi ngục, người dữ sợ chết, như tù vào trong ngục".

    Thiên Đế hỏi rằng: "Như lời thầy dạy té ra cứu toàn mạng sống không có công phu gì rồi, đúng thật như lời thầy nói thì còn có hai việc: 1- Là thí cho ăn, 2- Là thí Pháp, đều có cái công đức gì, cúi xin thầy giảng dạy, khai hóa kẻ mờ ám này được rõ?".

    Giả Can đáp rằng: "Bố thí về việc ăn uống chỉ giúp mạng sống trong một ngày, còn bố thí của quý thì giúp sự thiếu thốn trong một đời, nhưng đó cũng là một sự nhân duyên ràng buộc thêm lớn đường sanh tử mà thôi, còn về sự thuyết pháp giáo hóa gọi là Pháp thí có thể khiến cho chúng sanh được đạo xuất thế gian. Mà đạo xuất thế gian ấy kể có ba món: Một là La Hán, Hai là Bích Chi Phật. Ba là Phật Đạo. Những người trong bậc Tam Thừa ấy đều nhờ nghe Pháp rồi y theo Pháp tu hành mới chứng được. Lại những chúng sanh khỏi cái khổ trong ba đường ác đạo, được hưởng cái phước vui ở cõi trời là đều nhờ nghe Pháp. Thế cho nên Phật nói đem Pháp bố thí thì được công đức vô lượng".

    Thiên đế thưa rằng: "Nay thân thầy đây, thật là thân nghiệp báo hay là thân Ứng Hóa vậy?".

    Giả Can đáp rằng: "Thật là cái thân nghiệp báo chớ chẳng phải là thân Ứng Hóa".

    Người trời nghe rồi bừng dậy kinh hãi, buồn thảm thương tâm, nhỏ đôi hàng giọt lệ, liền đứng dậy cung kỉnh bạch Giả Can rằng: "Lòng con tưởng thầy là Bồ Tát Thánh nhân ứng hiện cứu đời mà nay vừa nghe Thầy nói là tội nghiệp quả báo. Chúng con chưa rõ cái duyên cớ gì? Cúi xin thầy thương xót nói rõ nhân duyên ấy?".

    Giả Can đáp rằng: "Ngài muốn nghe cũng được, ta nay nói đây. Ta trước hồi đời thượng cổ, ta sanh trong nước Ba La Nại, tại thành Ba Đầu Ma, làm con nhà nghèo tên là A Dật Đa cũng thuộc về dòng Sát đế lợi, tuy tuổi còn nhỏ mà thông minh ham mộ sự học hành đến khi mười hai tuổi đi theo Minh sư vào ở trong chốn thâm sơn nhọc nhằn hầu hạ, nghiên cứu tập học siêng năng không biếng lười, thầy cũng ngày đêm tha thiết dạy bảo, không mất thời giờ, trải qua năm mươi năm học được chín mươi sáu món Kinh, Thơ, Ký, Luận, Phương y, Chú thuật và xem tướng biết hung, tai, dị, họa, phước không có món nào mà không biết, trí đức tài cao danh vọng bốn bể.

    Khi bấy giờ, A Dật Đa tự nghĩ rằng: Cái sự cứu giúp ngày nay đâu không nhờ cái công ơn giáo hóa của Hòa thượng Tôn Sư ta, cái công ấy khó trả. Song mà nhà ta nghèo hèn không có gì để cúng dường, chỉ còn một lẽ là bán thân để đền đáp ơn thầy, nghĩ như thế rồi liền quỳ xuống thưa với thầy rằng: "Đệ tử con nay muốn tự bán thân đền trả ơn Thầy".

    Thầy lại bảo rằng: "Này con! Kẻ đạo sĩ này ở trong núi vẫn đi khất thực tự nuôi sống không có việc chi thiếu thốn, nhưng con nay vì sao lại hủy báng cái thân quý mà cúng dường cho ta vậy. Thôi con nay đã được thành tựu trí tuệ biện tài thì nên đi giáo hóa thiên hạ nhân dân, vì pháp làm ngọn đèn sáng, thì cái công giáo hóa ấy há chẳng đủ trả ơn cho ta hay sao! May lắm! Thôi đừng làm những chuyện như vậy".

    Khi đó, A Dật Đan là người trí nên không trái lời Thầy, bèn ở lại trong nước đi khất thực tự nuôi sống. Như vậy không bao lâu vị Quốc vương trong nước thăng hà. Các quan quần thần nhóm họp lại luận bàn, ra lệnh trong nước các chư học sĩ đều mời nhóm hết bảo cùng nhau thi luận, nếu ai được nhiều hơn hết sẽ được làm vua.

    Khi ấy, A Dật Đa cũng được mời đến nhóm cùng với chư học sĩ có hơn năm trăm người, suốt trong bảy ngày cùng nhau thi luận. Nhưng không có ai hơn được A Dật Đa. Quần thần rất vui mừng liền mời các thầy Bà-la-môn lại, tôn A Dật Đa lên nối ngôi vị Quốc vương.

    Khi A Dật Đa thấy sự như vậy rồi, vừa lo vừa mừng mà tự nghĩ thầm rằng: "Nếu ta làm vua thì sợ e có cái tâm kiêu mạn khoái ý tham cầu làm cho nhân dân bị khổ, đến khi chết sẽ đọa vào trong địa ngục, vì làm vua là một nhân duyên chịu khổ, còn nếu không làm vua thì nhà nghèo không có cái của cải lấy gì cúng dường báo đáp ơn nặng cho thầy, nghĩ đi nghĩ lại đành phải nhận ngôi vua để trả ơn cùng nuôi dưỡng song thân. Nghĩ như vậy rồi đành nhận ngôi vua.

    Khi lên ngôi vua rồi liền sai quan trung thần sửa soạn xe báu, tràng phan bảo cái, hương hoa kỹ nhạc đủ trăm món đồ ăn uống vào trong núi rước thầy về nước cúng dường riêng lập cung điện toàn bằng thất bảo, sơn phết chạm trổ đủ mọi vẻ đẹp, nào là giường chõng mền nệm, đồ ăn uống thuốc thang, vườn hoa, rừng quả, suối chảy ao tắm trang hoàng rực rỡ để cúng dường thầy. Vua A Dật Đa cùng với quan dân trong nước Phu nhân thể nữ. Ngày ngày theo thầy thọ giáo pháp Thập thiện suốt trong một trăm năm.


  2. #2
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi ấy, cõi ngoài có hai nước nhỏ, hai ông vua nhỏ kia cùng nhau ganh ghét riêng lập binh mã đánh giết lẫn nhau, trải qua đã nhiều năm mà đàng nào cũng không hơn đàng nào. Một nước nhỏ kia tên là An Na La, một nước nữa tên là Ma La Bà Da. Lúc đó vua An Na La mời các quần thần nhóm lại cùng nhau đề nghị rằng: "Chúng ta phải lấy phương pháp gì để đánh hơn được nước kia". Các quần thần đáp rằng: "Vua A Dật Đa là người sanh sản nơi nhà hàn tiện, tuy là địa vị ngôi vua, nhưng cái tánh hàn tiện vẫn còn, và từ xưa đến nay vâng giữ theo mười điều lành không phạm sắc ngoài (tà dâm) tuy có cung nữ nhưng mà tuổi già hết rồi. Như theo kế của tiểu thần thì nên tìm xem trong nước, không luận nhà nghèo hay giàu, miễn gái cho có tiếng, đủ một trăm người tuổi trẻ sắc đẹp, hễ vừa ngó thấy là vừa thích ý, ăn mặc trang điểm phấn son thơm sạch. Rồi sai quan trung thần chở chuyên của báu và các thể nữ ấy đem sang cống hiến. Nếu ngài thâu nhận thì xin ngài giúp cho trăm vạn hùng binh đem qua đánh thì không đâu là không thắng". Ai nấy liền y theo kế đó: Gái đẹp, của báu trong một giờ tìm đủ, vua sai trung thần đem sang cống hiến.

    Khi bấy giờ, vua A Dật Đa được các mỹ nữ và của báu thì chi xiết vui mừng mới hỏi vị sứ thần rằng: "Vua ngươi cống hiến cho ta những vật quý như thế này mà muốn cho ta đáp lại những gì không?" Sứ thần tâu rằng: "Vì nước Ma La Bà là một nước dưới quyền thống trị của Đại vương, vua kia ngu mê không biết giáo hóa nhân dân, dâm loạn vô đạo không lo việc quốc chánh, nhân dân bị đồ thán xem như kẻ thù. Dám xin Đại vương giúp cho trăm vạn hùng binh đem qua đánh nước ấy. Nên hôm nay tôi thành tâm cống hiến chính là vì lẽ đây". Vua nói rằng: Hay lắm! Rồi liền sai quan lệnh giản kiểm đủ trăm vạn hùng binh đem giao phó cho đó và vua An Na La cũng tự chọn lựa trong nước được trăm vạn binh nhân đồng thời giúp nhau, thổi hiệu ra lệnh suốt trong trăm ngày đấu chiến sát hại người chết hơn nửa, mới thắng được nước kia. Bấy giờ, vua Ma La Bà đều bị xử trảm và cả họ hàng có hơn ngàn vạn người trong một thời đều chết sạch.

    Bấy giờ, nhắc lại vua A Dật Đa khi được các gái đẹp thì tình ý mê hoặc quên mất bổn tâm, lung dâm chơi đùa không lo việc quốc chánh; để cho quan quần liêu cùng nhau làm loạn; bắt con gái của lương dân về làm nô lệ. Gió mưa không đúng thời tiết, nhân dân chết đói đầy đường. Nên bị kẻ địch nước ngoài bèn đến xâm lấn. Vua A Dật Đa từ đây mất nước rồi cũng bị diệt vong.

    Sau khi chết rồi sanh trong đường Địa ngục thân chịu khổ sở, nhưng vì nhờ đời trước có sứ học vấn trí tuệ, nên nhớ được túc mạng tâm tự hối quá bỏ dữ làm lành; chỉ trong giây lát hết đời Địa ngục sanh làm Ngạ quỷ, mà còn nhớ được mạng đời trước, liền lại ăn năn tội lỗi, chuyên tu pháp Thập thiện; trong giây lát lại hết đời Ngạ quỷ sanh trong loài Súc sanh, chịu cái thân Giả Can, song vì nhờ cái sức trí tuệ nên lại còn biết được túc mạng; bỏ những việc ác đã qua sửa làm việc lành sắp đến, vâng giữ pháp Thập thiện, lại đi giáo hóa tất cả chúng sanh khiến dạy bảo làm mười điều lành. Nhưng nay rủi gặp sư tử rượt bắt trong khi sợ hãi nhảy nhào xuống giếng, trong tâm tưởng là chết rồi sẽ được sanh về cõi Trời hết khổ được vui, nhưng mà do ngươi cứu ta làm trái bổn nguyện của ta nên mới trải qua những nỗi khổ, biết đời nào khỏi được. Thế cho nên ta nói ngươi cứu mạng ta là không có công phu vậy.

    Thiên Đế nạn rằng:"Như theo lời Thầy nói thì người lành cầu chết. Việc ấy không phải vậy. Là vì sao? Vì thầy ở dưới giếng nếu không nắm vào áo thì không đặng lên, nếu không đặng lên thì thân không đặng sống. Nay xét cái nguyên do được sống là nhờ Thầy nắm vào áo. Thế cho nên phải biết rằng: "Chẳng phải là Thầy không muốn sống lẽ nào thầy lại nói rằng Thầy không tham sống ư?".

    Giả Can đáp rằng: "Ý ta nay sở dĩ nắm vào áo là chính vì ba sự nhân duyên rất lớn. Sao gọi là ba? Một là nắm vào áo vì không trái cái bổn nguyện của Thiên đế. Vả lại làm trái ý không mãn chỗ sở nguyện của người, thì mắc cái khổ rất lớn, làm cho người khổ não thì đời đời sanh ra chỗ nào, chí nguyện cũng không loại, cầu chi cũng không dặng, tìm nơi nào cũng không gặp, khổ não đến thân. Ta vì cái lẽ ấy chớ chẳng phải là vì sự sống vậy. Hai là nắm vào áo, là thấy ý chư Thiên muốn đặng nghe Pháp; nên ta muốn vì chư Thiên tuyên truyền Chánh pháp bởi ta không lẫn pháp vậy. Ví như ta không nói thì thành ra lẫn pháp, mà cái tội lẫn pháp đời đời sanh đui, điếc, câm, ngọng, các căn bế tắc, sanh ở chốn biên địa, ngu si vô trí. Dù sanh ở chỗ tốt mà tâm tánh ám độn sở học không thành tựu nên khổ não đến thân. Ta nay vì cái lẽ ấy chớ chẳng phải vì sự sống vậy. Thí như người đời, nhân đời trước của họ làm việc bố thí tu thiện phước đức nhân duyên, nên đời nay sanh ra làm người, chỗ sở nguyện tùng tâm giàu có của cải, mà kẻ nghèo đi đến xin lại keo tâm lẫn tiếc không chịu thí cho, cái quả báo của sự xan tham sẽ sanh trong đường Ngạ quỷ thường bị nạn đói khát, áo chẳng đủ che thân, mùa đông lạnh rét thân thể nứt nẻ, mùa nắng thì nóng dữ, không có bóng che, khổ não như thế đến mấy nghìn vạn kiếp. Tội Ngạ quỷ hết rồi sanh trong loài Súc sanh ăn cỏ uống nước, ngu dại không biết chi, hoặc ăn bùn đất, uống nước bất tịnh, đó là vì mắc cái tội xan tham, cho nên phải chịu cái quả báo như vậy. Mà cái tội lẫn Pháp cũng như thế.

    Ba là nắm vào áo, là chính vì muốn tuyên truyền Pháp hóa cùng khắp vậy thôi. Đó là vì muốn khai ngộ lợi ích cho người Trời".


  3. #3
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thiên đế lại hỏi rằng: "Gọi là Pháp thí được công đức không lường". Việc ấy ra làm sao? Cúi xin thầy nói cho. Giả Can đáp rằng: "Tuyên truyền Chánh pháp hay khiến cho chúng sanh được biết có chết đây thì có sanh kia, làm lành thì được phước, làm ác phải chịu họa, tu đạo đắc đạo; nhờ công đức ấy, đời sau sanh ra được trí tuệ sáng suốt thường biết túc mạng: hoặc sanh lên cõi trời thì làm thầy của chư Thiên, nếu sanh trong thế gian, thì làm vua Kim Luân thường đem pháp Thập Thiện giáo hóa trong thiên hạ; hoặc làm vị nhân vương, lấy Chánh pháp trị nước, thường biết túc mạng, vì biết túc mạng, nên tâm không buông lung.

    Pháp người ở địa vị cao sang, hưởng thú vui của ngũ dục phần nhiều có ma sự đến phá hoại, cám dỗ khiến cho người cảm tình tạo ra nghiệp ác, tuy còn làm những việc tội lỗi chịu cái quả báo ác, nhưng nhờ cái sức trí tuệ, chóng được khỏi khổ, sanh lên cõi trời, hưởng phúc vui; trí tuệ sáng suốt, dần dần tăng trưởng thành hạnh Bồ Tát; đến nhẫn vô sanh. Thế cho nên Phật nói rằng: "Cái công giáo hóa được phước không lường".

    Thiên đế vui mừng thưa rằng: "Hay thay! Hay thay! Đúng thật như lời thầy nói thì con và chư Thiên, ngày nay mới biết tài thí và Pháp thí cái công đức nhân duyên tướng có sai khác. Những người làm việc tài thí ví như một ngọn đèn soi sáng trong một nhà nhỏ. Còn việc làm Pháp thí ví cũng như ánh sáng của mặt nhật soi trong bốn châu thiên hạ, ánh sáng đến đâu thì sự mờ ám tiêu hết. Sở dĩ vì sao? Vì cái thể của mặt nhật, tánh nó tự sáng cho nên hay chiếu vật. Hòa thượng nay cũng lại như vậy. Vì cái bản thể tu tập nên được sáng suốt, lại đem trí tuệ sáng suốt đó trừ cái mờ tối cho chúng sanh".

    Đương khi Thiên đế nói lời ấy rồi, thì tám vạn chư Thiên cả thảy đều đứng dậy sửa sang y phục, cung kỉnh quỳ gối chắp tay bạch với Giả Can rằng: "Xin thầy thương xót trao cho chúng con pháp Thập thiện được nhiều lợi ích cho tất cả chúng sanh được lợi ích và cũng khiến cho Hòa thượng thêm nhiều công đức". Giả Can đáp rằng: "Hay thay! Thật ngươi rất biết thời". Liền bảo Thiên đế rằng: "Cái pháp thọ giới thì trước hết phải sám hối cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Thế nào gọi là Thân nghiệp? Nghĩa là sát, đạo, dâm. Thế nào gọi là Khẩu nghiệp? Là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Thế nào là Ý nghiệp? Là tật đố, sân nhuế và tà kiến. Ấy là mười việc cấm ngăn thân, khẩu, ý ba nghiệp đừng cho phạm các việc ác đó gọi là Thập ác. Bấy giờ, phải nhất tâm thành thật sám hối chừa bỏ mười điều ác, vì mười điều ác tiêu hết, thì thân, khẩu, ý được thanh tịnh, vì ba nghiệp được thanh tịnh cho nên, gọi là Thập thiện".

    Thiên đế lại hỏi Hòa thượng Giả Can rằng: "Cái công đức Thập thiện quả báo ra làm sao?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe Thầy ta nói, người tu pháp Thập thiện, mà cái quả báo của pháp Thập thiện, sẽ sanh lên cõi trời Lục Dục, cung điện toàn thất bảo, ngũ dục sẵn sàng, đủ trăm món đồ ăn, và mạng sống lâu không lường; cha mẹ, vợ con, dùng lục thân quyến thuộc, xinh đẹp, sạch sẽ, hoan hỷ, khoái lạc.

    Giả sử như chư Thiên tu pháp Thập thiện thọ phước, cõi trời hết nhưng cũng trở lại sanh trong cõi trời được phước báu gấp bội, chớ chẳng phải như cái quả báo Thập thiện của người đời tu đâu. Vì sao? Bởi vì người đời tu pháp Thập thiện là ba giới của tâm thật khó giữ gìn.

    Một là giới bất sân. Trước phải phương tiện thực hành tâm từ, rồi sau mới có thể thành được giới bất sân. Mà người đời thực hành cái tâm từ, rất khó giữ được lâu. Ví như rạch nước, vừa rạch thì vừa hiệp, giữ giới bất sân cũng lại như thế.

    Hai là giới tật đố. Giới tật đố phát ra có lúc. Thế nào là phát ra có lúc. Nghĩa là thấy người kia được lợi, thấy người kia khoái lạc, thấy người kia kia đoan chánh, thấy người kia mạnh mẽ, thấy người kia thông minh, thấy người kia tu phước. Nói tóm lại là thấy tất cả việc người hơn mình thì khi ấy cái tâm thấy hơn mình mới sanh ra tật đố. Thế cho nên phải biết rằng: Cái tâm tật đố phát ra có lúc.

    Ba là cái tâm kiêu mạn. Mà cái tâm kiêu mạn kia phát ra cũng có lúc. Nghĩa là: Thấy người ngu si, thì cái tâm khởi ra sự kiêu mạn, và lại thấy người xấu xa, thấy người nhơ bẩn, thấy người nghèo khổ, nói tóm lại là thấy người đui, điếc, què, lết các căn không đủ, mường mán, mọi rợ, thì lúc ấy cái tâm kiêu mạn mới phát khởi ra trong khi thấy. Thế cho nên phải biết rằng: Giới bất kiêu mạn phát ra có lúc.


  4. #4
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bởi vậy, nên người đời giữ giới tâm rất khó. Dù cho gắng giữ, nhưng thoạt được thoạt không. Thế nên cái quả báo pháp Thập thiện của người đời tu, dù cho hưởng cái phước ở cõi Trời, nhưng cũng không bằng cái công đức pháp Thập thiện của người Trời tu, quang minh thần lực, những món ăn, uống, tướng hảo vòi vọi thứ nhất; biết túc mạng của mình cũng lại như vậy. Bởi thế nên biết rằng: "Người Trời tu pháp Thập thiện thì cái quả báo hơn người đời tu".

    Thiên đế bạch rằng: "Như lời của thầy nói người tu pháp Thập thiện ba giới của tâm thật là khó giữ, người Trời cũng vậy những tánh tật đố, sân nhuế, kiêu mạn, tà kiến các tâm như thế chưa từng không có, thì làm sao cái phước báu hơn người đời được ư?".

    Giả Can đáp rằng: "Người Trời tuy có, nhưng mà không phải như người đời. Sở dĩ vì sao? Vì người trời phước đức khổ ít, vui nhiều, tâm phiền não cũng nhẹ, còn người đời phước mỏng, vui ít, khổ nhiều cho nên tâm phiền não rất nặng". Thiên đế thưa rằng: "các người trời từ xưa đến nay ưa vui, tâm như con lộc, lại ví cũng như con viên hầu. Đời nay tu pháp Thập thiện, đời sau khỏi có tánh ngu si và hay quên. Nhưng mà trong khi phạm giới phải làm sao vậy ngài?". Giả Can đáp rằng : "Ta từng nghe Thầy ta nói người tu pháp Thập thiện nếu rủi có phạm những nghiệp ác thì phải đến vị Hiền minh phước đức tùy theo chỗ phạm của mình mà phát lồ sám hối rồi xin thọ lại, làm người được như vậy thì không mất giới. Sở dĩ vì sao? Vì giới Thập thiện đây ví như lúa mạ, còn phiền não như cỏ, cỏ cùng với lúa lấn hại lẫn nhau. Bây giờ nếu muốn lúa tốt thì phải nhổ sạch cỏ chỉ còn một thứ lúa, thì thâu hột được nhiều, vì lúa được nhiều thì không bao giờ bị nạn đói khát".

    Khi bấy giờ, Thiên đế và tám vạn chư Thiên nghe những lời ấy rồi thật vui mừng không còn lo buồn vô thường phước hết, chịu cái quả báo trong ác thú. Lại tự nghĩ rằng: Cái công đức Thập thiện, tuy khỏi cái quả báo khổ, song còn phải có sanh tử chẳng khỏi vô thường. Kìa như có vị Thiên vương ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại thấy người tu phước ôm lòng tật đố, làm cho người mắc nạn quên mất đường lành, khiến tạo những nghiệp ác; nhân duyên nghiệp báo nên phải chịu cái quả khổ". Liền bạch với Giả Can rằng: "Thưa Tôn sư, tu các công đức gì mà thường bất tử và khỏi bị Ma vương nó cám dỗ vậy?".

    Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe Thầy ta nói: Người mà phát tâm Bồ đề, tu nghiệp Bồ Tát thì dù cho Ma vương Ba Tuần cũng không có thể phá hại vì tâm không mê hoặc, đời đời sanh ra được trí huệ sáng suốt, vì được trí huệ sáng suốt cho nên thường nhớ được túc mạng, vì nhớ được túc mạng nên không tạo ra những nghiệp ác, vì không tạo ra những nghiệp ác cho nên tâm được thanh tịnh, vì tâm được thanh tịnh nên đặng Pháp nhẫn Vô sanh, vì được Pháp nhẫn Vô sanh cho nên đối với Đạo không lui sụt xa lìa đường sanh tử và sự ưu hoạn khổ não".

    Thiên Đế bạch rằng: "Tu đạo Bồ Tát thì nên hành pháp nào?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe thầy ta nói người muốn cầu Phật đạo thì từ nơi tâm mà phát ra, trước phải học rộng các Pháp nhân duyên, rõ được nhân duyên, thì tín tâm mới bền vững. Vì tín tâm được bền vững nên mới có thể phát ra được cái tâm tinh tấn, vì có cái sức tinh tấn nên khỏi tạo ra tất cả nhân duyên nghiệp ác, vì tâm được thuần thiện nên không buông lung, vì không buông lung nên trí huệ được thành tựu; vì cái sức trí huệ được thành tựu nên thâu nhiếp được tất cả ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ đề".


  5. #5
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thiên đế thưa rằng: "Như lời Thầy dạy thì ba mươi bảy phẩm nghĩa ấy rộng sâu, nếu chẳng phải là cái tâm như con lộc thì không có thể rõ được. Vậy làm sao vào đặng đạo hạnh Bồ Tát ư?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe Thầy ta nói người tu đạo Bồ Tát trước phải dùng phương tiện điều phục các căn. Sao gọi là phương tiện? Nghĩa là: sáu pháp Ba La Mật và pháp Tứ Vô Lượng Tâm, gọi là phương tiện điều phục các căn".

    Thiên Đế bạch rằng: "Thưa ngài! Sáu pháp Ba La Mật cái nghĩa kia ra làm sao! Cúi xin ngài nói cho". Giả Can đáp rằng: "Thứ nhất là Bố thí. Vì Bố thí nên phá được cái tâm xan tham không còn tiếc nuối. Thứ hai là Trì giới, nghĩa là: Giữ các điều lành, không làm những việc ác. Thứ ba là Nhẫn nhục, nghĩa là: Gặp những việc ác mà tâm có thể nhẫn được, không ôm lòng báo thù. Thứ tư là Tinh tấn, nghĩa là: Tinh tấn hay tu hành đạo nghiệp không biếng lười. Thứ năm là Thiền định, nghĩa là: Hay thâu nhiếp tâm thần không có niệm tà. Thứ sáu là Trí huệ, nghĩa là: Tu tập trí huệ để chiếu phá vô minh phiền não tối tăm. Ấy gọi là sáu pháp Ba La Mật dùng sức phương tiện điều phục các căn. Thế nào là bốn? - Một là Từ tâm. Hai là Bi tâm. Ba là Hỷ tâm. Bốn là Xả tâm. Đó gọi là bốn việc, cũng gọi là Tứ Vô Lượng Tâm".

    Thiên Đế lại hỏi rằng: "Sao gọi là Từ Tâm?". Giả Can đáp: "Thấy người khổ ách, phải dấy tâm từ đứng ra cứu hộ, đều khiến cho họ được yên ổn".

    Thế nào là Bi tâm? Nghĩa là: Thấy tất cả chúng sanh bị ái vô minh nên tạo nghiệp sanh tử chịu cái khổ trong năm đường không có thể ra khỏi, thế nên chúng ta nay chớ nên biếng lười, phải thường siêng năng tinh tấn tu tập trí huệ chóng thành Phật đạo, khi đặng thành Phật đạo ròi thì đem trí huệ sáng suốt chiếu phá vô minh hắc ám cho chúng sanh khiến thấy sáng suốt, khỏi cái khổ ràng buộc. Dù chưa thành Phật nhưng ra làm tất cả nghiệp lành đều hồi hướng cho chúng sanh. Khiến cho chúng sanh được yên vui. Chúng sanh có tội thì ta phải chịu thay thế. Đó gọi là "Bi tâm".

    Thế nào là Hỷ tâm? Như thấy người đời tu hành Thiện nghiệp, cầu quả Tam thừa khuyến khích giúp đỡ tùy hỷ, thấy người hưởng vui, tâm mình cũng tùy hỷ, thấy người đoan chánh, thấy người mạnh khỏe, thấy người giàu sang, thấy người trí huệ, thấy người từ tâm, thấy người hiếu thuận. Nói tóm lại, là thấy tất cả người làm việc phải rồi khuyên lơn tùy hỷ, đó gọi là "Hỷ tâm".

    Sao gọi là Xả tâm? Phàm ra làm tất cả công đức, làm ân huệ cho người mà không trông cầu công đức, làm ân huệ cho người mà không trông cầu quả báo đời sau và đời sau nữa, đó gọi là "Xả tâm", thành tựu được bốn việc nên gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Bởi chúng sanh vô lượng, nên Bi tâm cũng vô lượng. Bởi chúng sanh vô lượng, nên Hỷ tâm cũng vô lượng. Bởi chúng sanh vô lượng, nên Xả tâm cũng vô lượng. Thế nên gọi là Tứ Vô Lượng Tâm luôn với sáu pháp độ trước, cộng gọi mười pháp Ba La Mật. Mười pháp Ba La Mật tóm thâu tất cả đạo hạnh Bồ đề".

    Khi đó trời Đế Thích nghe Giả Can nói nhân duyên công đức pháp tu Thập thiện và lại nghe nghĩa thú nhân duyên của vị Bồ Tát tu đạo Bồ đề thì mới hết chỗ nghi, vui mừng khấp khởi rúng động cả thân tâm; tức thời cùng với tám vạn chư Thiên hầu hạ liền đứng dậy sửa sang cung kỉnh chắp tay bạch với Giả Can rằng: "Thưa Tôn sư! Ngày nay đệ tử và tám vạn chư Thiên nhất tâm đồng thời phát tâm Bồ đề, vâng làm đủ đạo hạnh Bồ Tát như lời thầy dạy. Cúi xin Hòa thượng tùy hỷ nói cho". Giả Can đáp rằng: "Người thật đã biết thời như vậy là đúng với cái bổn tâm hy vọng của ta".

    Bấy giờ, Thiên đế bạch Giả Can rằng: "Thưa Hòa thượng! Hòa thượng ăn uống pháp dùng thế nào? Cúi xin dạy bảo để cho chúng con sửa sang cúng dường". Giả Can đáp rằng: Thức ăn của ta ngươi nghe không hợp. Vì sao? - Bởi tội nghiệp nhân duyên cho nên những món ăn của ta rất là bất tịnh (nhơ bẩn) hình giống như Súc sanh mà chẳng khác nào Ngạ quỷ, tốt hơn là đừng hỏi đến món ăn kia". Thiên đế bạch rằng: "Thưa Hòa thượng! Hòa thượng ăn uống dù tốt cũng nên nói, dù xấu cũng phải nói, để đệ tử con nay sẽ tùy theo chỗ thích hợp sửa sang cúng dường".

    Giả Can đáp rằng: "ta từng ăn những phẩn của sư tử hổ lang, và ăn xương cốt, vải rách, thịt nát của người chết trong gò mả, rủi gặp cơn đói khát mà không được, có những món ăn như vậy, thì cũng ăn bùn đất; tội khổ quả báo suốt đời cho đến khi chết. Tuy đồ ăn bất tịnh mà chưa từng no đủ".


  6. #6
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi ấy, vị Thiên đế Thích cùng cả chư Thiên nghe Giả Can nói thức ăn uống ấy, rồi buồn thương cảm cách đau lòng rơi lệ, bạch với Giả Can rằng: "Đệ tử ý muốn dọn mâm cỗ để sửa sang cúng dường. Nhưng theo lời Thầy nói thì chỗ sở nguyện không mãn, không biết làm sao được. Đệ tử con nay trở về Thiên cung phải làm phương pháp gì để trả ơn nặng cho thầy". Giả Can đáp rằng: "Như quý ngài đây, theo ta nghe pháp, khi trở về cõi Trời, lần lựa giáo hóa khai ngộ chư Thiên chẳng luận nam nữ nhẫn đến một người khiến cho tín thọ vâng làm, thì của những trả ơn cho ta mà thôi mà cũng là trả ơn tất cả chư Phật. Tùy thuận giáo hóa mà tự thêm lớn phước đức chư Thiên, huống chi là cái phước báu giáo hóa khai ngộ nhiều người thì công báu vô lượng".

    Chư Thiên đứng dậy bạch với Giả Can rằng: "Đệ tử chúng con từ nay trở về Thiên cung, nhưng không biết Hòa thượng chứng nào mới bỏ cái thân tội báo đây, để được sanh lên cõi Trời cùng con thấy nhau?". Giả Can đáp rằng: "Ta hẹn trong bảy ngày sẽ bỏ thân tội này, rồi sanh lên cõi trời Đâu Suất. Vậy các ngươi cũng nên nguyện sanh về cõi Trời ấy. Là vì sao? Bởi cõi trời Đâu Suất phần nhiều có các vị Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa cho những người Trời muốn cầu Phật đạo". Thiên đế thưa rằng: "Như lời Thầy dạy, đệ tử chúng con ở cõi trời Đao Lợi chừng phước hết, mạng chung đều sẽ nguyện sanh lên cõi trời Đâu Suất kia, con cùng Thầy thấy nhau để theo hầu hạ nhờ Thầy dạy bảo, đúng như thề nguyện hôm nay vậy". Chư Thiên nói xong liền dùng hương hoa ở cõi Trời rải trên mình Giả Can rồi từ biệt lui di. Chư Thiên đi rồi Giả Can vẫn ngồi một chỗ nhất tâm chuyên niệm pháp Thập thiện, không đi kiếm ăn, đến bảy ngày mạng chung, sanh lên cõi trời Đâu Suất làm con vị Thiên vương, còn nhớ được túc mạng lại đem pháp Thập thiện giáo hóa chư Thiên.

    Bấy giờ, Phật bảo Đại vương rằng: "Đại vương phải biết Giả Can hồi đó tức là thân Ta bây giờ. Vị trời Đế Thích hồi đó, tức là Xá Lợi Phất nay đây. Giáo thọ Đại sư Ưu Ba Đạt của vua A Dật Đa hồi đó tức là ngài Di Lặc ở cõi trời Đâu Suất bây giờ. Còn tám vạn chư Thiên tức là tám vạn Bồ Tát ở ngôi Bất thối trong cõi Ta Bà quốc độ này". Phật giáo lại bảo Đại vương rằng: "Ta còn nhớ thuở xưa, Ta vừa mới phát tâm tu đạo Bồ đề nhẫn đến Pháp nhẫn Vô sanh ở trong khoảng thời gian ấy Ta thường cùng với Di Lặc, Xá Lợi Phất v.v... Vì cầu pháp nên Ta siêng năng tinh tấn không đoái đến thân mạng theo dõi Minh sư, gần gũi hầu hạ, tinh nghiêm học vấn thành tựu được trí huệ; vì nhờ sức trí huệ, nên ở trong năm đường tùy sanh ra chỗ nào đều giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh, khiến cho chúng sanh được khỏi khổ cho đến khi thành Phật; đều nhờ Bát Nhã trí huệ phương tiện mà đoạn trừ tất cả nhân duyên kiết tập, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác; rồi lại đem trí huệ ở trong cõi Ta Bà quốc độ này giáo hóa chúng sanh khiến khỏi cái khổ trong ba cõi. Thế cho nên Ta nói Bát Nhã trí huệ có bốn danh nghĩa".

    Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc và cả quyến thuộc nghe Phật nói rồi thì tâm ý mở tỏ liền đứng dậy làm lễ vui mừng khấp khởi: Đứng chắp tay bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Hôm nay con gặp Phật được nhiều thiện lợi; nghe Phật nói pháp không biết chán nản. Sở dĩ vì sao? Vì Đức Thế Tôn trước nói bốn pháp Chơn Đế và pháp Thập Nhị Nhân Duyên là cái đạo xuất thế gian, nhưng vì căn tánh ám độn mê man không hiểu, do vì không hiểu cho nên thân thể mỏi mệt. Nay nghe Phật nói cái pháp tu của Bồ Tát; tuy chưa hiểu hết song lòng con rất ham mộ khao khát muốn nghe tâm không nhàm đủ. Đệ tử nay muốn phát tâm Bồ đề, cầu đạo Vô thượng. Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót hứa cho và dạy bảo pháp tu theo Bồ Tát để cho chúng con y theo pháp tu hành".


  7. #7
    Avatar của vivi
    Tham gia ngày
    Aug 2015
    Bài gửi
    418
    Thanks
    513
    Thanked 231 Times in 140 Posts
    KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
    Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phật bảo vua rằng: "Này Đại vương, pháp tu Bồ Tát như trên đã nói rõ. Thân, khẩu, ý nghiệp làm theo mười điều lành và pháp Ba La Mật tóm thâu tất cả pháp trợ Phật đạo, Đại vương có thể làm được không?". Vua đáp rằng: "Như lời của Thế Tôn nói pháp tu Thập thiện và ba giới của tâm thật rất khó giữ gìn, phải làm thế nào thọ rồi đừng cho quên mất?".

    Phật bảo vua: "Tâm người đời như con lộc lại cũng thí như con viên hầu, vì bị những ngọn gió phiền não thổi rung động, thế nên muốn tu pháp Thập thiện không đặng chậm trễ vậy. Tu pháp Thập thiện phải có hạn trong ba thời. Sao gọi là ba thời? Nghĩa là sáng sớm đến bữa ăn ngọ gọi là thượng thời; ăn xong một bữa gọi là trung thời; đi một bước là hạ thời. Thọ pháp Thập thiện tùy theo chỗ lãnh được pháp nào, ở trong thời đây toan giữ tâm mình, ba giới cho bền vững đừng cho lọt mất, thế nên gọi là pháp tu Thập thiện".

    Vua nói rằng: "Như Thế Tôn nói cái công đức tu Thập thiện hạn trong ba thời rất ít, thì làm sao sanh được phước?". Phật bảo vua rằng: "Người tu pháp Thập thiện, thời giờ ngắn mà công đức rất nhiều. Vì sao? Vì ba giới của tâm rất khó giữ gìn, tuy giữ gìn trong giây lát mà được quả báo vô lượng, thí như có người ở trong trăm năm chất đống củi rơm, dùng lửa đốt đó thì trong giây phút, thảy đều cháy hết.

    Thế cho nên phải biết rằng: "Tu pháp Thập thiện thời giờ rất ít mà có thể diệt được vô lượng tội trọng ác nghiệp. Như người dò lửa chuyên cần dụng lực trong giây phút được lửa, mà công lực của lửa ấy có thể đốt cỏ cây rừng bụi trong thiên hạ chỉ trong chốc lát đều cháy sạch. Đại vương phải biết, người tu pháp Thập thiện cũng lại như thế. Vì tu trong giây phút mà có thể diệt hết vô lượng tội trọng ác nghiệp; và hay khiến cho người tu nứt mộng Bồ đề. Mầm mộng Bồ đề đã nứt nảy dần dần thêm lớn cho đến khi thành Phật quả".

    Vua nghe Phật nói lời ấy rồi liền đứng dậy làm lễ tất cả vui mừng đặng chưa từng có. Bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Thưa Thế Tôn! Đệ tử con nay được nhiều thiện lợi. Sở dĩ vì sao? Bởi nghe Đức Thế Tôn nói nhân duyên công đức tu pháp Thập thiện hay khiến cho chúng sanh thành tựu mộng Bồ đề. Đệ tử con nay, chí thích Bồ đề sẽ siêng năng tu hành, tâm không lui sụt".

    Khi Phật nói xong, những kẻ theo hầu vua như quần thần, quan dân, hậu cung, thể nữ, Phu nhân cùng bốn bộ đệ tử Thiên Long, Quỷ thần, Nhơn và Phi nhơn v.v... hơn năm nghìn người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề.

    Khi ấy, vua Ba Tư Nặc và bà Đại Phu nhân hễ lúc ra vào đi đến, cũng thường sai bốn người sức lực rất mạnh tên là Phiến Đề La; sai bốn người này khiêng kiệu cho Hoàng hậu. Hoàng hậu ngồi trên kiệu bằng thất bảo để ở ngoài Tinh xá Kỳ Hoàn, bảo các người Huỳnh môn canh gác, các người Huỳnh môn giao lại cho bốn người Phiến Đề La còn mình thì đến chỗ Phật nghe pháp. Bọn Phiến Đề La đều nằm dưới kệ ngủ mê không hay chi cả, lúc đó có kẻ hung nhân trộm lấy ngọc Ma ni châu trên kiệu báu của hoàng hậu.

    Khi ấy, các người Huỳnh môn tạm ra xem kiệu nhưng không thấy bảo châu, trong lòng kinh hãi sợ Hoàng hậu quở trách, liền bảo bốn người Thạch nữ rằng: "Ta sai các ngươi coi chừng kiệu cớ sao trộm lấy ngọc bảo châu". Trong bốn người thưa rằng: "Thật chúng tôi không thấy". Huỳnh môn nổi giận lấy roi đánh các người Thạch nữ đau nhức thấu xương, trong đó có một người Thạch nữ biết mình không có trộm mà chịu oan bèn tuôn chạy xen vào Tinh xá la to kêu oan. Mọi người nghe nhưng không biết việc chi.

    Phật bảo A Nan: "Ngươi hãy đi đến chỗ các người Huỳnh môn kia, bảo đừng đánh oan cho người vô tội. Vì sao thế? Vì bốn người Thạch nữ ấy chính là thầy đời trước của Hoàng hậu. Chúng đã là kẻ vô tội, vì sao bị đánh đập; đó là tự gây nhân duyên nghiệp ác cho đời sau". Bấy giờ Hoàng hậu nghe Phật nói lời ấy rồi, liền đứng dậy cung kỉnh chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói té ra bốn người Thạch nữ khiêng kiệu cho con đây, chính là thầy đời trước của con. Nhưng vì con mê muội nên không rõ, cúi xin Thế Tôn giải bày những nhân duyên ấy, cho các người trong hội đây đều được nghe biết?". Phật bảo: "Hoàng hậu kêu các người Thạch nữ đến trước Thế Tôn để Ta nghiệm xét chỗ hư thật".

    Hoàng hậu vâng mạng liền sai Huỳnh môn bắt hết đem đến; khi ấy bốn người Thạch nữ vừa trông thấy Phật cúi đầu rơi lụy, quỳ gối chắp tay, Bạch Thế Tôn rằng: Thật con không có trộm lấy ngọc châu, nhưng không biết vì lẽ gì bắt oan tội ấy, đánh đập làm thân thể con tan nát". Đức Thế Tôn đáp: "Tội nghiệp nhân duyên tự thân mình gây tạo ra, chớ không phải cha mẹ làm tội".


Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •