KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
__________________________________________________ ______________________________________
Khi bấy giờ, Giả Can thấy các người Trời ân cần khuyến thỉnh và ưa muốn nghe pháp thì lòng vui mừng bội phần. Liền bảo Thiên đế rằng: "Ta nhớ nghĩ thuở xưa Ta từng thấy người đời, những người muốn nghe pháp, thì trước phải sửa sang một cái tòa cao, trang sức thanh tịnh, mới thỉnh Pháp sư lên ngồi thuyết Pháp. Vì sao? - Bởi Kinh Pháp là quý trọng, kỉnh đó thời được phước, chớ nên đem cái tâm khinh, mà bị tổn phước". Chư Thiên nghe rồi ai nấy nói rằng: "Xin vâng". Liền cởi áo Thiên bảo chồng lại thành một cái tòa cao, chỉ trong giây phút đã được trang sức tôn nghiêm thanh tịnh bậc nhất.
Khi đó, Giả Can lên tòa, bảo Thiên đế rằng: "Ta nay nói Pháp chính là vì hai sự nhân duyên rất lớn: Thế nào gọi là hai: 1- Là vì thuyết pháp khai hóa cõi Thiên thì được phước không lường. 2- Là vì cái ơn thí cho ăn không nói sao được". Thiên đế thưa rằng: "Cứu khỏi nạn chết dưới giếng được toàn thân mạng thì cái công ơn rất lớn. Thế nào Tôn giả lại nói cái ơn đó không bằng cái ơn thuyết pháp. Sở dĩ vì sao?" Hòa thượng phải biết rằng: "Tất cả trong thiên hạ ai cũng ưa sống cầu an, không ai muốn chết cả. Do vì nhân duyên ấy nên cái công ơn cứu toàn thân mạng há đặng không lớn hay sao?".
Giả Can đáp rằng: "Cái sự thích hợp sống chết phải chăng của mỗi người đều có khác. Hoặc có người tham sống, hoặc có người ưa chết. Kẻ nào tham sống, là kẻ sống trong đời ngu si mờ ám chẳng biết chết rồi lại có sanh ra đời sau, trái Phật xa Pháp, không gặp Minh sư, làm việc sát, đạo, dâm, dối, chỉ gặp ác là theo, những người như thế là người tham sống sợ chết. Trái lại, người nào ưa chết, muốn gặp Minh sư, phụng sự ngôi Tam Bảo, cải dữ làm lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Thầy Tổ, hòa thuận vợ con, tôi tớ quyến thuộc đều được khiêm nhường cung kỉnh mọi người, những người như vậy là người ghét sống ưa chết. Sở dĩ vì sao? Vì người lành chết đi, nhờ phước được sanh lên cõi trời hưởng năm điều dục lạc. Còn người dữ chết đi sẽ vào địa ngục chịu khổ không cùng. Người lành ưa chết, như tù ra khỏi ngục, người dữ sợ chết, như tù vào trong ngục".
Thiên Đế hỏi rằng: "Như lời thầy dạy té ra cứu toàn mạng sống không có công phu gì rồi, đúng thật như lời thầy nói thì còn có hai việc: 1- Là thí cho ăn, 2- Là thí Pháp, đều có cái công đức gì, cúi xin thầy giảng dạy, khai hóa kẻ mờ ám này được rõ?".
Giả Can đáp rằng: "Bố thí về việc ăn uống chỉ giúp mạng sống trong một ngày, còn bố thí của quý thì giúp sự thiếu thốn trong một đời, nhưng đó cũng là một sự nhân duyên ràng buộc thêm lớn đường sanh tử mà thôi, còn về sự thuyết pháp giáo hóa gọi là Pháp thí có thể khiến cho chúng sanh được đạo xuất thế gian. Mà đạo xuất thế gian ấy kể có ba món: Một là La Hán, Hai là Bích Chi Phật. Ba là Phật Đạo. Những người trong bậc Tam Thừa ấy đều nhờ nghe Pháp rồi y theo Pháp tu hành mới chứng được. Lại những chúng sanh khỏi cái khổ trong ba đường ác đạo, được hưởng cái phước vui ở cõi trời là đều nhờ nghe Pháp. Thế cho nên Phật nói đem Pháp bố thí thì được công đức vô lượng".
Thiên đế thưa rằng: "Nay thân thầy đây, thật là thân nghiệp báo hay là thân Ứng Hóa vậy?".
Giả Can đáp rằng: "Thật là cái thân nghiệp báo chớ chẳng phải là thân Ứng Hóa".
Người trời nghe rồi bừng dậy kinh hãi, buồn thảm thương tâm, nhỏ đôi hàng giọt lệ, liền đứng dậy cung kỉnh bạch Giả Can rằng: "Lòng con tưởng thầy là Bồ Tát Thánh nhân ứng hiện cứu đời mà nay vừa nghe Thầy nói là tội nghiệp quả báo. Chúng con chưa rõ cái duyên cớ gì? Cúi xin thầy thương xót nói rõ nhân duyên ấy?".
Giả Can đáp rằng: "Ngài muốn nghe cũng được, ta nay nói đây. Ta trước hồi đời thượng cổ, ta sanh trong nước Ba La Nại, tại thành Ba Đầu Ma, làm con nhà nghèo tên là A Dật Đa cũng thuộc về dòng Sát đế lợi, tuy tuổi còn nhỏ mà thông minh ham mộ sự học hành đến khi mười hai tuổi đi theo Minh sư vào ở trong chốn thâm sơn nhọc nhằn hầu hạ, nghiên cứu tập học siêng năng không biếng lười, thầy cũng ngày đêm tha thiết dạy bảo, không mất thời giờ, trải qua năm mươi năm học được chín mươi sáu món Kinh, Thơ, Ký, Luận, Phương y, Chú thuật và xem tướng biết hung, tai, dị, họa, phước không có món nào mà không biết, trí đức tài cao danh vọng bốn bể.
Khi bấy giờ, A Dật Đa tự nghĩ rằng: Cái sự cứu giúp ngày nay đâu không nhờ cái công ơn giáo hóa của Hòa thượng Tôn Sư ta, cái công ấy khó trả. Song mà nhà ta nghèo hèn không có gì để cúng dường, chỉ còn một lẽ là bán thân để đền đáp ơn thầy, nghĩ như thế rồi liền quỳ xuống thưa với thầy rằng: "Đệ tử con nay muốn tự bán thân đền trả ơn Thầy".
Thầy lại bảo rằng: "Này con! Kẻ đạo sĩ này ở trong núi vẫn đi khất thực tự nuôi sống không có việc chi thiếu thốn, nhưng con nay vì sao lại hủy báng cái thân quý mà cúng dường cho ta vậy. Thôi con nay đã được thành tựu trí tuệ biện tài thì nên đi giáo hóa thiên hạ nhân dân, vì pháp làm ngọn đèn sáng, thì cái công giáo hóa ấy há chẳng đủ trả ơn cho ta hay sao! May lắm! Thôi đừng làm những chuyện như vậy".
Khi đó, A Dật Đan là người trí nên không trái lời Thầy, bèn ở lại trong nước đi khất thực tự nuôi sống. Như vậy không bao lâu vị Quốc vương trong nước thăng hà. Các quan quần thần nhóm họp lại luận bàn, ra lệnh trong nước các chư học sĩ đều mời nhóm hết bảo cùng nhau thi luận, nếu ai được nhiều hơn hết sẽ được làm vua.
Khi ấy, A Dật Đa cũng được mời đến nhóm cùng với chư học sĩ có hơn năm trăm người, suốt trong bảy ngày cùng nhau thi luận. Nhưng không có ai hơn được A Dật Đa. Quần thần rất vui mừng liền mời các thầy Bà-la-môn lại, tôn A Dật Đa lên nối ngôi vị Quốc vương.
Khi A Dật Đa thấy sự như vậy rồi, vừa lo vừa mừng mà tự nghĩ thầm rằng: "Nếu ta làm vua thì sợ e có cái tâm kiêu mạn khoái ý tham cầu làm cho nhân dân bị khổ, đến khi chết sẽ đọa vào trong địa ngục, vì làm vua là một nhân duyên chịu khổ, còn nếu không làm vua thì nhà nghèo không có cái của cải lấy gì cúng dường báo đáp ơn nặng cho thầy, nghĩ đi nghĩ lại đành phải nhận ngôi vua để trả ơn cùng nuôi dưỡng song thân. Nghĩ như vậy rồi đành nhận ngôi vua.
Khi lên ngôi vua rồi liền sai quan trung thần sửa soạn xe báu, tràng phan bảo cái, hương hoa kỹ nhạc đủ trăm món đồ ăn uống vào trong núi rước thầy về nước cúng dường riêng lập cung điện toàn bằng thất bảo, sơn phết chạm trổ đủ mọi vẻ đẹp, nào là giường chõng mền nệm, đồ ăn uống thuốc thang, vườn hoa, rừng quả, suối chảy ao tắm trang hoàng rực rỡ để cúng dường thầy. Vua A Dật Đa cùng với quan dân trong nước Phu nhân thể nữ. Ngày ngày theo thầy thọ giáo pháp Thập thiện suốt trong một trăm năm.