CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA   Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
__________________________________________________  ______________________________________
7/ Tham Thiền Lầm Dụng Công Rất Dễ Phạm Những Bệnh Sau Đây:
  
1. Chỉ bệnh: Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng dừng lại, như nước biển 
chẳng nổi sóng, chẳng nổi một bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, Đạo 
giáo thanh tịnh quả dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này, Phật tánh thì 
chẳng hợp với Chỉ.
  
2. Tác bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi niệm lành, nghịch trần hợp 
giác, nghịch giác hợp trần; phá một phần vô minh, chứng một phần pháp 
thân; Lão Tử “Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để quán sai”; 
Khổng Tử “Chánh tâm thành ý”, nhà Nho “Trừ bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn 
tại chánh tâm của thiên lý”, ấy thuộc về bệnh này, Phật chẳng do Tác mà đắc.  
3. Nhậm bệnh: Tư tưởng khởi cũng mặc kệ, diệt cũng mặc kệ, chẳng dứt 
sanh tử, chẳng cầu Niết bàn, chẳng trụ và chấp trước tất cả tướng, chiếu mà 
thường tịch, tịch mà thường chiếu, đối cảnh vô tâm, nhà Nho “Lạc thiên tri 
mệnh”, Đạo giáo “Trở về tự nhiên”, “Trở về hài nhi” đều thuộc bệnh này, 
Phật tánh chẳng do Nhậm mà có.  
4. Diệt bệnh: Tất cả tư tưởng dứt sạch, mênh mông trống rỗng đồng như gỗ 
đá, Trung thừa phá nhất niệm vô minh, Trang Tử “Tọa vong”, nhà Nho 
“Ngã tâm vũ trụ” và chơn lý của sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ thuộc bệnh này, 
Phật tánh chẳng do Diệt mà có.  
Tham thiền lầm dụng công phu nếu phạm bốn bệnh kể trên thì sẽ lầm Tứ 
tướng, nay lược giải như sau:
  
1. Ngã tướng: Tức là ngã chấp; Tiểu thừa khi đã dứt lục căn, tiểu ngã đã 
diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, lúc ấy tâm lượng rộng lớn, thanh tịnh tịch 
diệt,  hình  như  đầy  khắp  vũ  trụ.  Nhà  Triết  học  Hy  Lạp  nói  “Đại  ngã”, 
“Thượng đế”, Lão Tử “Nhấp nhoáng trong đó có tượng, nhấp nhoáng trong 
đó có vật; sâu xa mịt mù, trong đó có tinh” đều thuộc về ngã tướng. 
 
2. Nhơn tướng: Tức pháp chấp, khởi niệm sau để phá niệm trước, ví như 
niệm trước có ngã, niệm sau chẳng nhận là ngã, rồi lại khởi một niệm nữa để 
phá cái niệm “chẳng nhận là ngã”, nối liền như thế cho đến vô ngã, nhưng 
kiến giải “phá” vẫn còn, ấy là nhơn tướng. Trang Tử nói: “Ta nay mất ngã” tức là Nhơn tướng.
  
3. Chúng sanh tướng: Cũng là pháp chấp, cảnh giới này ngã tướng, nhơn 
tướng chẳng thể đến, tức là Chúng sanh tướng. Nhà Nho nói: “Mừng, giận, 
buồn, vui khi chưa phát gọi là Trung”. Thư Kinh nói: “Duy tinh duy nhất, 
nên chấp nơi Trung”, chữ Trung này tức là Chúng sanh tướng.
  
4. Thọ giả tướng: Tức là không chấp, tất cả tư tưởng đều đã ngưng nghỉ, tất 
cả thị phi thiện ác đều đã quên mất, trong đó trống rỗng chẳng có chi cả, 
đồng như mạng căn. Lục Tổ gọi là Vô ký không, Nhị thừa nhận lầm cho là 
cảnh giới Niết bàn, kỳ thật chính là vô thỉ vô minh, Thiền tông gọi là hầm 
sâu vô minh, “hầm sâu đen tối mịt mù”, Đạo giáo nói “Vô cực” tức là cảnh giới này.  
Bốn tướng kể trên đều thuộc pháp hữu vi, đều chẳng cứu cánh, nên kinh 
Viên Giác nói: “Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ bốn tướng, dù khổ hạnh 
tu tập trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất 
cả Thánh quả”. Kinh Kim Cang nói: “Có ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng 
sanh tướng, Thọ giả tướng, ắt chẳng phải Bồ tát”, là chỉ rõ bốn thứ cảnh giới 
này đều chẳng phải chánh pháp. Người trí kém thường nói “Tam giáo cùng 
nguồn”, nếu được rõ tinh nghĩa bốn tướng này thì biết Tam giáo cách nhau 
như trời với đất, vì phạm bốn bệnh bèn lầm nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh:  
Huệ Trung quốc sư hỏi một Thiền giả: Từ đâu đến?   
Đáp: Từ miền Nam đến.   
Sư hỏi: Miền Nam có Thiện tri thức nào?  
Đáp: Tri thức rất nhiều.  
Sư hỏi: Làm sao dạy người?  
Đáp: Tri thức miền Nam khai thị người học “Tức tâm là Phật, nghĩa Phật là 
giác, nay ngươi sẵn đủ chánh kiến, văn, giác, tri, tánh này nhướng mày nháy 
mắt, vận dụng khứ lai khắp trong cơ thể, búng đầu đầu biết, búng chân chân 
biết, nên gọi là chánh biến tri, ngoài ra chẳng Phật khác; thân này có sanh 
diệt, tâm tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng sanh diệt, thân sanh diệt như con 
rắn lột da, người ra nhà cũ, thân là vô thường, tánh thì thường”. Sở thuyết 
miền Nam đại khái như thế.  
Sư nói: Nếu vậy chẳng khác với bọn ngoại đạo tiên ni; họ nói “trong thân 
này có một thần tánh, tánh này hay biết đau ngứa, khi thân hoại thì thần ra 
đi, như nhà bị cháy chủ nhà ra đi, nhà là vô thường, chủ nhà là thường”. Nếu 
nói như thế thì chẳng phân biệt được tà chánh, lấy gì làm đúng! Trước kia ta 
đi du phương gặp nhiều bọn này, tụ chúng năm ba trăm, mắt ngó mây trời, 
nói là Tông chỉ miền Nam, tự sửa đổi kinh Pháp Bảo Đàn, lược bỏ Thánh ý, 
thêm vào lời tục để mê hoặc cho hậu học, đâu còn ngôn giáo! Khổ thay! Mất 
cả Tông ta! Nếu cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh thì Duy Ma Cật chẳng 
nên nói “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri; nếu hành kiến, văn, giác, tri, ấy là kiến, 
văn, giác, tri, chẳng phải cầu pháp vậy”. 
 
Huỳnh Bá Truyền Tâm Pháp Yếu nói: “Cái tâm bổn nguyên thanh tịnh này 
thường tự sáng tròn chiếu khắp, người đời chẳng ngộ, chỉ nhận kiến, văn, 
giác, tri là tâm; bị kiến, văn, giác, tri che khuất nên chẳng thấy bản thể tinh 
minh. Hể ngay đó vô tâm thì bản thể tự hiện, như mặt trời trên không, chiếu 
khắp mười phương chẳng có chướng ngại.Người học đạo nên ở kiến, văn, 
giác, tri nhận bản tâm, nhưng bản tâm chẳng thuộc kiến, văn, giác, tri, cũng 
chẳng lìa kiến, văn, giác, tri; chớ nên ở kiến, văn, giác, tri động niệm, cũng 
chớ lìa kiến, văn, giác, tri cầu pháp; chẳng tức chẳng lìa, chẳng trụ chẳng 
chấp, tung hoành tự tại, nơi nào chẳng phải đạo tràng!”
  
8/ Lục Tổ Với Thần Tú:  
Thần Tú nói: “Thân là cây Bồ đề, Tâm như đài gương sáng, luôn luôn siêng 
lau chùi, chớ cho dính bụi trần”. Kiến, văn, giác, tri dụ cho gương sáng, 
vọng niệm như bụi dính gương, siêng lau chùi dụ cho dứt sạch vọng niệm, 
chớ cho dính bụi là dụ chẳng cho vọng niệm sanh khởi.
  
Thật ra kiến, văn, giác, tri vốn hay khởi vọng niệm, là chẳng thể dứt sạch 
được, ví như nguồn suối ngày đêm chảy nước ra, dứt rồi lại chảy nữa vĩnh 
viễn dứt không được. Cho nên người nhận kiến, văn, giác, tri là Phật tánh 
vốn là sai lầm, tu hành vô ích.
37  Coi Nguon TT.jpg  38  Coi Nguon TT.jpg