CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA   Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
__________________________________________________  ______________________________________
Lời nói văn tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng có giá trị để nói, 
nhưng đối với sự thuyết pháp độ sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm 
công cụ chủ yếu, đến khi hội Linh Sơn Phật niêm hoa thị chúng, Ca Diếp tỏ 
ngộ, mới tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự” 
để truyền cho Ca Diếp, pháp môn này là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật 
tánh, khiến chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản thể của 
Chơn như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn 
biết họ căn cơ đã thuần thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này, 
khiến đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa. 
 
Suy nghĩ, lời nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô minh. Khi một niệm 
chưa động, tịch nhiên trống rỗng, chẳng có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng 
chẳng lời nói văn tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích 
thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ có lời nói, do lời 
nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời nói chẳng có tiếng, lời nói là suy nghĩ có
 tiếng, văn tự là nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba đều gom trong 
chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên gọi” có hai thứ, một là tên 
gọi ngôn thuyết, hai là tên gọi suy tư. Nhà triết học Rousseau cũng nói “Tư 
tưởng là nói bên trong”, Lâm Tế thiền sư nói: “Tên gọi chẳng tự là tên gọi, 
chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh thiêng của kiến văn giác tri chiếu soi 
ấy, gắn cho tất cả tên gọi”. Nhưng cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất 
niệm vô minh có sanh có diệt, biến đổi vô thường, tên gọi văn tự cũng theo 
đó biến đổi vô thường. Vô thường thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt 
đối, tương đối chẳng thể hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật tánh chỉ 
có thể tự tu tự chứng mới có thể nhận biết được, chẳng thể dùng văn tự diễn 
tả, cũng chẳng thể dùng bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất 
nghĩa (Phật tánh tuyệt đối) là sở đắc của Thánh trí tự đắc, chẳng phải cảnh 
giới cảm giác của vọng tưởng ngôn thuyết, cho nên vọng tưởng chẳng thể 
hiển bày Đệ nhất nghĩa. Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên 
tương sanh với nhau, vì do nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể 
hiển bày Đệ nhất nghĩa”.  

  
Kinh Giải Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở chứng bên 
trong của bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo lường) là sở chứng của 
chúng sanh”. Lại nói: “Sở hành của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành 
theo cảnh giới có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là hành 
theo cảnh giới ngôn thuyết; thắng nghĩa vốn tuyệt biểu thị, thắng nghĩa tuyệt 
cả tranh luận, suy tư là hành theo cảnh giới tranh luận”.  
Theo các kinh điển kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn như Phật tánh 
chẳng thể tiếp xúc với nhau. Người ta thường nói: “Chỉ có thể ý hội, chẳng 
thể ngôn truyền”. Kỳ thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng 
thể được, huống là ngôn truyền ư! Chẳng những Phật tánh như thế, cho đến 
một kỹ thuật của thế gian chỗ huyền diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền 
vậy.   
Như Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách nhà trên, người thợ mộc đẽo bánh 
xe ở nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi Hoàn Công rằng: xin hỏi sách 
Ngài đọc đó là sách gì?  
Hoàn Công trả lời: Lời nói của bậc Thánh.  
-Bậc Thánh đâu?  
-Chết rồi.
Người đẽo bánh xe liền nói: Thế thì sách của Ngài đọc đó chỉ là cặn bả của 
bậc Thánh mà thôi!  
Hoàn Công nói: Quả nhân đọc sách, người thợ đẽo bánh xe sao được bàn 
luận?  Nến  nói  có  lý  thì  ta  tha  tội,  nếu  nói  không  được  thì  chém  đầu.  
Người đẽo bánh xe thưa: Hạ thần đem việc của hạ thần ra mà xem, nếu hạ 
thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì xe chạy được nhưng không an toàn vì 
dễ sút ra, nếu đẽo hơi chặt thì bánh xe khít mà quay không được, do sự tự 
ngộ của hạ thần, tâm khiến tay, tay cầm búa đẽo vào bánh xe, chẳng lỏng 
chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói, nhưng có sự tự động ở trong đó. Dù 
con của hạ thần cũng là một thợ mộc danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể 
đem sự ngộ ấy để truyền dạy cho con. Nay hạ thần còn sống, có bánh xe, có 
búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng được, huống là bậc Thánh đã chết, chỉ 
để lại lời nói không còn gì cả!  
Do đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián tiếp, sức diễn tả rất 
hạn chế, huống là muốn truyền đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật nói: 
“Bất khả thuyết! Bất khả thuyết!” Còn Văn Thù bồ tát tán thán Duy Ma Cật 
rằng: “Cho đến chẳng có ngôn có thuyết, ấy là chơn nhập pháp môn bất 
nhị”. Lão Tử nói: “Cho nên bậc Thánh ở nơi việc vô vi hành giáo giáo pháp 
vô ngôn”. Khổng Tử nói: “Ta muốn vô ngôn”. Tử Lư nói: “Văn chương qua 
Khổng Phu Tử có thể nghe mà tánh với thiên đạo thì chẳng thể nghe”. Liệt 
Tử nói: “Vì ngộ bản tánh nên chẳng thể bảo cho biết”. Các nhà Nho và Đạo 
giáo đều cùng một ý kiến này.  
Thế Tôn vì cứu sự hạn chế hẹp hòi của lời nói văn tự, nên ở ngoài ngôn giáo 
biệt truyền phương pháp trực tiếp, tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng 
những niêm hoa mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn 
đều là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập bản thể tuyệt đối.  
Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới đều có ngôn thuyết, 
ngôn thuyết chỉ dùng để giả lập mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để 
thuyết pháp, hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt, hoặc 
cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc lay động, hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại 
Huệ! Những tác dụng kể trên đều khiến chư Bồ tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn 
và Tam muội thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả tánh. 
Đại Huệ! Giống như những ruồi muỗi, con kiến, con trùng trong thế giới 
này, đều chẳng có ngôn thuyết mà mỗi mỗi làm xong việc hằng ngày”