CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
__________________________________________________ ______________________________________
8- GIA PHONG CỦA NĂM PHÁI THIỀN.
Dưới cửa Lục Tổ có bốn ba người đắc pháp, mỗi mỗi hóa độ một phương,
đều là chánh thống, trong đó có Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên
Hành Tư và Hà Trạch Thần Hội nổi bậc nhất. Phái Nam Nhạc sau này sanh
ra Lâm Tế và Qui Ngưỡng hai tông, phái Thanh Nguyên sau này sanh ra
Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động ba tông. Mỗi tông đều có phương pháp
riêng để tiếp dẫn hậu học, gọi chung là Ngũ gia gia phong. Phái Hà Trạch
truyền đến Khuê Phong Tông Mật, vốn là người tông Hoa Nghiêm, thuộc
giáo môn, chưa thể gánh vác tông chỉ Tào khê mà mong điều hòa Thiền tông
với các tông Giáo môn, lọt vào ngôn thuyết kiến giải, làm cho phái Hà Trạch
Thần Hội tuyệt truyền, chỉ còn phái Nam Nhạc Thanh Nguyên được người
đời sau công nhận là phái đích truyền của Tào Khê.
Nam Nhạc có Mã Tổ cũng như Thanh Nguyên có Thạch Đầu, Mã Tổ được
sự thọ ký “Dưới chân chà đạp khắp người thiên hạ”, còn Thạch Đầu thì có
tiếng tăm “Thạch đầu đường trơn”. Mã Tổ chủ hóa Giang Tây, Thạch Đầu
chủ hóa Hồ Nam, người tham học từ bốn phương đều tìm đến cửa hai phái,
rất là thịnh vượng. Dưới cửa Mã Tổ có đệ tử một trăm ba mươi chín người
ngộ đạo, trong đó có Bá Trượng Hoài Hải nổi bật nhất, ngài Bá Trượng là
người bắt đầu sáng lập Thiền viện, soạn Thanh qui của Tòng lâm, đệ tử bậc
thượng là Huỳnh Bá Hy Vận, Qui Sơn Linh Hựu. Dưới Huỳnh Bá có Lâm
Tế Nghĩa Huyền, là Tổ của Lâm Tế tông.
Qui Sơn là Tổ của Qui Ngưỡng tông, dưới Qui Ngưỡng có Ngưỡng Sơn Huệ
Tịch, do thầy trò Qui Sơn, Ngưỡng Sơn xướng họa với nhau cùng phát
dương mà thành gia phong của bản Tông.
Dưới Thạch Đầu người đắc đạo cũng nhiều, trong đó Thiên Hoàng Đạo Ngộ,
Dược Sơn Duy Nghiễm hai nhánh là chủ lưu, dưới Đạo Ngộ truyền qua
Long Đàm Sùng Tín, Đức Sơn Tuyên Giám, đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn,
Thiền phong chấn hưng, tứ chúng nhiễu quanh thường hơn một ngàn năm
trăm người, đệ tử tiếp nối có Vân Môn Văn Yểm, Huyền Sa Sư Bị tất cả
năm mươi sáu người, Văn Yểm là Tổ của Vân Môn tông.
Dưới Huyền Sa truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ
của Pháp Nhãn tông.
Dưới Dược Sơn Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động
Sơn Lương Giới với đệ tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động
tông. Ấy là cội nguồn thành lập của năm phái Thiền.
Nói gia phong là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông
chỉ biệt truyền của Thiền tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau,
nhưng cá tánh mỗi mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới
có sự khoan hồng, oai mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm
lại, gia phong của các phái trong Thiền tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng”
của Phật Thích Ca làm mô phạm.
Phương pháp phổ biến nhất của chư Tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét
để tiếp dẫn hậu học. “Gậy” bắt đầu Lục Tổ đánh Thần Hội, “Hét” bắt đầu từ
Mã Tổ tiếp Bá Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp
giơ tay, A Nan hiệp chưởng, nhị tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã
Tổ dựng phất trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hòa Sơn đánh trống,
Thạch Cũng giương cung, tuyết Phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui
Tông kéo đá, La Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập,
Lâm Tế vào cửa liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng”
của Vô Nghiệp, Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng
khác với sự niêm hoa thị chúng của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ
phát huy dùng để tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm
Tế Nghĩa Huyền thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu giản
để khám xét đồ chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra
thành gia phong.