DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 83
  1. #1
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    III- SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC

    Người ta thường hay nhận lầm Thiền học tức là Hình nhi thượng học của
    Triết học Tây phương, thật ra thì chẳng đúng. Bởi Hình nhi thượng học là
    một môn học để giải thích bản thể của vạn hữu, mà pháp Thiền là phương
    pháp dùng để chứng nhập bản thể của vạn hữu. Hình nhi thượng học dù
    muốn giải thích bản thể của vạn hữu, nhưng vì bản thân của người nghiên
    cứu chưa chứng nhập bản thể, cho nên chẳng có cách nào chơn chánh để
    nhận biết bản thể và giải đáp một cách đầy đủ triệt để. Thật bản thể này
    chẳng phải dùng kinh nghiệm suy tư có thể đạt đến, như kinh Viên Giác nói:
    “Dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới của Như lai, như lấy lửa đom đóm
    để đốt núi Tu di thì làm sao cháy được!”
    Học giả Tây phương đối với vấn đề chơn thật siêu việt kinh nghiệm xưa nay
    chẳng có cách nào để giải quyết, như các nhà triết học Emmanuel Kant
    (1724 – 1804) bèn cho trí thức năng lực của con người chỉ có thể nhận biết
    thế giới tương đối trong phạm vi cảm giác suy tư, đối với cái bản thể thế giới
    tuyệt đối siêu việt kinh nghiệm suy tư thì chẳng có cách nào để nhận biết
    được, lại có người cho rằng việc này chẳng cần nghiên cứu nữa, rồi chuyển
    hướng hết lòng để nghiên cứu khoa học. Nhưng đại đa số học giả vẫn cho là
    trong thế hệ Triết học chẳng thể thiếu sự nghiên cứu Hình nhi thượng học,
    bất quá chẳng lấy bản thể tuyệt thể tuyệt đối làm đối tượng nghiên cứu, chỉ
    lấy lý luận căn bản của sự vật để làm vấn đề nghiên cứu mà thôi. Cho nên
    trong Triết học Tây phương chỉ có bản thể luận tương đối, chẳng có bản thể
    luận tuyệt đối.
    Từ xưa nay trải qua mấy ngàn năm, học giả Tây phương đều hướng vào kinh
    nghiệm suy tư để làm công phu, chẳng những không được chứng nhập bản
    thể siêu việt kinh nghiệm suy tư, lại nghiên cứu sâu chừng nào thì xa lìa bản
    thể nhiều chừng nấy, cái nguyên do là thiếu một phương pháp để chứng
    nhập bản thể.
    Sự Tham Thiền chẳng phải trực giác, trực giác là do tác dụng của bộ não
    thần kinh, bộ não thần kinh chẳng biết được Phật tánh. Các học giả Tây
    phương chỉ tùy theo kinh nghiệm trong vật chất, chọn cái nào là căn bản
    nhất để làm cái nguồn gốc của vạn vật mà thôi.
    Trong lúc nhà triết học Hy Lạp đang dùng kinh nghiệm suy tư để truy cứu
    nguồn gốc của vạn vật, thì Phật Thích Ca phát minh được phương pháp để
    trực tiếp chứng nhập bản thể, siêu việt kinh nghiệm suy tư đã mấy ngàn
    năm. Cho nên pháp Thiền của Phật Thích Ca thật là một phát minh lớn nhất
    của loài người, giá trị ấy thật chẳng thể đo lường.
    Từ khi Phật Thích Ca phát minh pháp Thiền trực tiếp chứng nhập, người tu
    theo pháp này được kiến tánh thành Phật (chứng nhập bản thể) đã vô số kể,
    chỉ nói về Trung Quốc, người được kiến tánh, được ghi trong các Truyền
    Đăng Lục đã hơn bảy ngàn người, còn những người đã kiến tánh mà chưa
    được ghi vào thì chẳng biết là bao.







    Coi Nguon TT - 05.jpg Coi Nguon TT - 06.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  2. The Following User Says Thank You to choconxauxi For This Useful Post:

    cunconmocoi (11-19-2021)

  3. #2
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    IV- MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM
    THIỀN
    Bản thể tức là việc rất thực tế rốt ráo, nhà Phật gọi là Thật tướng, cũng gọi là
    Chơn như Phật tánh, tên gọi rất nhiều, đều tùy dụng mà đặt danh, cái ý nghĩa
    của bản thể này với bản thể của nhà Triết học Tây phương khác nhau, muốn
    chứng nhập bản thể, ngoài Tham Thiền chẳng có cách khác.
    Nhà Triết học Tây phương đối với vấn đề bản thể chỉ có một thái độ nghiên
    cứu để nhận biết, nhà Phật đối với Chơn như Phật tánh thì tỏ ra một thái độ
    thọ dụng thực tế. Vì người Tham Thiền một khi được chứng nhập bản thể
    tức là kiến tánh thành Phật, ra khỏi sanh tử luân hồi, được sự thọ dụng lớn
    (tự do, tự tại vĩnh viễn), mục đích của người học Phật là vậy. Nên bất cứ
    Tông phái nào trong Phật giáo đều lấy pháp Thiền làm căn bản, đồng thời
    căn cứ theo pháp Thiền đó có thể khiến người kiến tánh hay không mà phân
    biệt cao thấp. Như Tiểu thừa dứt lục căn, phá ngã chấp mà lọt vào pháp
    chấp; Trung thừa phá pháp chấp mà lọt vào không chấp, ấy đều chưa thể
    chứng nhập bản thể, chẳng được kiến tánh thành Phật. Đại thừa Bồ tát phá
    không chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng,
    phương pháp của Thiền tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt
    đến, mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập, gọi là Đốn ngộ thành
    Phật.





    Coi Nguon TT - 08.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  4. #3
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG I

    1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN

    Loài người từ nguyên thỉ ngu dại ngoan cố, Phật tánh Bát nhã bị vô minh
    che khuất nên thân tâm hoạt động đều bị ngũ uẩn, tam độc chi phối, sống
    trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn sẵn viên mãn chẳng có thiếu
    sót, như ngọc quí ẩn trong phiến đá chỉ đợi người khai thác ra mà thôi. Sau
    này trí thức mở mang mới cảm thấy hiện tượng vũ trụ kỳ lạ, lại tôn sùng cho
    là thần linh, kế đó phát tâm truy cứu cái bí mật của vũ trụ. Ban đầu thì muốn
    nhờ bộ não lý giải để xác định quy tắc, sau này trở về tìm nội tâm muốn truy
    cứu chỗ nguồn gốc biến hóa. Những người trí huệ cao siêu thì muốn nhờ sức
    Bát nhã để cầu chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, vượt ra ngoài sanh tử
    luân hồi, do đó pháp Thiền liền đáp ứng sự nhu cầu mà ra đời.
    Cứu xét lịch sử tiến hóa của loài người, các dân tộc phương Đông và phương
    Tây, tổ tiên của họ đều có sự nhu cầu như thế, đồng thời mỗi mỗi đều có sự
    phát hiện quí báu, chỉ vì hoàn cảnh trí huệ khác biệt, đường lối thực hành
    chẳng đồng, nên được kết quả sai biệt cách xa như trời với đất. Các nhà tôn
    giáo Tây phương thì chú trọng linh cảm, nhà Triết học thì tôn sùng khái
    niệm và trực giác, các phái Đạo gia của Trung Quốc thì tọa vong, nhà Nho
    thì duy tinh, duy nhất, thảy đều có mùi vị Thiền.
    Thiền pháp của Bà La Môn Ấn Độ sáng lập trước hơn các nước khác, nhưng
    tất cả chưa lìa được tác dụng kiến, văn, giác, tri, nên chẳng có cách nào để
    chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, từ xưa nay vẫn phải chịu sự luân hồi
    trong tam giới. Chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni phát minh được Thiền pháp
    Bát nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh, triệt để chứng ngộ vào Vô
    dư Niết bàn, nên gọi là kiến tánh thành Phật. Phật Thích Ca đặt tên pháp
    Thiền này gọi là Pháp Bản Trụ, ý là tự nhiên bản trụ, chẳng do tạo tác mà có,
    và phủ nhận chẳng do tự mình phát minh.
    Kinh Lăng Già nói: “Ví như người đang đi ngoài đồng, thấy có đường đi
    bằng phẳng liền theo đó vào thành, thọ dụng sự an lạc như ý. Xưa kia tất cả
    Phật đều đi đường này thì nay ta cũng đi theo mà thôi”. Do đó mà xét thì
    biết pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa
    có loài người, Phật tánh đã sẵn sàng và pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao
    nhiêu Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt
    đến chỗ chơn như rốt ráo, vô thượng chư Phật; sau đời Phật Thích Ca cũng
    sẽ nương theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra
    chẳng có pháp nào khác, nên đường lối này dù là sẵn có, nếu chẳng có Phật
    Thích Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phải quanh quẩn trong ngã rẽ mà quên
    việc trở về nhà.








    Coi Nguon TT - 09.jpg Coi Nguon TT - 10.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  5. #4
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG I

    1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN

    2- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA


    Trước đời Phật Thích Ca, các Tông phái Bà La Môn Ấn Độ đều có pháp
    Thiền tu hành của họ, pháp danh tiếng nhất như: Mười Hai Tịnh Pháp Thiền,
    Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền, đều là ngoại đạo dùng nó để tu được sanh
    cõi Trời. Khi Phật Thích Ca mới xuất gia, từng tham học các Thiện tri thức
    của Bà La Môn, đối với các pháp Thiền của họ đều chưa hài lòng, cho nên
    vào Tuyết Sơn tự tu. Ban sơ vẫn dùng Phi Tưởng Phi Tưởng Thiền đoạn
    niệm dứt dục trải qua sáu năm chẳng kết quả gì, biết pháp Thiền của Bà La
    Môn là sai, nên tắm gội ăn uống lại rồi đến ngồi dưới cây Bồ đề, dùng pháp
    Thiền Bát nhã Tam muội phản quán chiếu soi, trải qua 49 ngày liền chứng
    quả Phật, than rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ đức
    tướng trí huệ của Như lai, nhưng chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể
    chứng đắc”. Thích Ca sau khi thành Phật, muốn dùng sở chứng của Ngài
    khai thị cho chúng sanh khiến ngộ, nhập Tri Kiến Phật, vì căn cơ chúng sanh
    muôn ngàn sai biệt, nên pháp của Như lai thuyết cũng muôn ngàn sai khác,
    nói đại khái có thể chia làm bốn thừa: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, và
    Tối thượng thừa. Tiểu thừa tu thiền Tứ Đế, gọi là Thanh văn thừa; Trung
    thừa tu thiền Thập Nhị Nhân Duyên, gọi là Duyên giác thừa; Đại thừa tu
    thiền Lục Độ, gọi là Bồ tát thừa; Tối thượng thừa là chỉ thị trực tiếp Chơn
    như Phật tánh, chỉ có người chứng nói với người chứng mới biết được, gọi là
    Nhất Phật thừa, tức là pháp thiền “Niêm hoa thị chúng”, cũng gọi là Giáo
    ngoại biệt truyền vậy.
    Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết hạnh
    Thanh văn cho họ; nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc giác thì thuyết đạo Duyên
    giác cho họ; nếu có người từ bi, ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ
    tát cho họ; nếu có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị pháp Vô thượng của
    Như lai”.
    Phật Thích Ca dù giả thiết đủ thứ phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, nhưng
    tông chỉ duy nhất chẳng ngoài một việc kiến tánh thành Phật mà thôi, nói vì
    một nhân duyên đại sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến
    chúng sanh đạt đến kiến tánh thành Phật, mới là sự phó chúc huệ mạng của
    chư Phật, chư Tổ.
    Kinh Pháp Hoa nói: “Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất Thừa,
    chẳng hai cũng chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện, chỉ dùng giả danh
    tự, dẫn dắt cho chúng sanh, nên nói trí huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài
    ra đều chẳng chơn”.
    Khi Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử đều lấy tu Thiền làm cơ bản, sau khi
    Phật Thích Ca nhập diệt, do pháp Thiền cao thấp thành có bốn thừa, nhưng
    đồng thời được các tông chú trọng. Thiền tông độc lập thành một tông phái
    là bắt đầu từ Trung Quốc.





    Coi Nguon TT - 11.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  6. #5
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    CHƯƠNG I

    1- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN

    2- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA


    3- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.

    Các pháp môn truyền dạy từ Phật Thích Ca đã có bốn thừa sai biệt, thì pháp
    Thiền của họ tu bèn có trực tiếp và gián tiếp khác nhau, như: Thế gian
    Thiền, Xuất thế gian Thiền, Thượng thượng Thiền, cho đến Ngũ chủng
    Thiền, Lục chủng đại Thiền… danh hiệu rất nhiều, có cách tu được kiến
    tánh, cũng có cách tu chỉ được sanh cõi Trời mà chẳng thể kiến tánh, nhưng
    đều chẳng xuất phát từ Thiền tông Trung Quốc.

    Dù nói Thiền tông Trung Quốc, nhưng bắt đầu từ Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp,
    truyền đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, truyền vào Trung Quốc làm Sơ tổ,
    ấy là sự y cứ để kiến lập Thiền tông. Sự tích của chư Tổ từ đời từ đời truyền
    xuống đều có ghi rõ trong Truyền Đăng Lục, độc giả muốn biết rõ thì hãy tự
    xem lấy, ở đây chẳng thể kể xiết.

    ---o0o---

    4- PHÁP THIỀN TẠI TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN

    Trước khi tổ Đạt Ma chưa đến, các kinh Thiền đã truyền vào Trung Quốc rất
    nhiều. Hằng Đế đời Hậu Hán có Sa môn An Thế Cao thông suốt kinh luận,
    lại giỏi về pháp Thiền, đến thành phố Lạc Dương, dịch kinh hơn trăm bộ,
    trong đó có các kinh nói về pháp Thiền gồm: Đại ban An Thủ Ý Kinh hai
    quyển, Thiền Hạnh Pháp Tưởng Kinh một quyển, Đại Thập Nhi Môn Kinh
    một quyển, Tiểu Thập Nhị Môn Kinh một quyển, Thiền Hạnh Ba Mươi Bảy
    Phẩm Kinh một quyển, Thiền Định Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh một
    quyển, Thiền Pháp Kinh một quyển.

    Cuối đời nhà Hán, có Cư sĩ Chỉ Khiêm người nước Nhục Chi đến Lạc
    Dương, dịch Tu Hành Phương Tiện Kinh hai quyển, Thiền Bí Yếu Kinh bốn
    quyển. Đời Tam Quốc có Khương Tăng Hội đến Dương Đô, dịch Tọa Thiền
    Kinh một quyển. Đời Tây Tấn có Sa môn Trúc Pháp Hộ dịch Hữu Pháp
    Quán Kinh một quyển; lại có Phật Đà Bạt Đà đến Trường An chuyên hoằng
    pháp Thiền, sau ứng lời mời của Huệ Viễn pháp sư ở Lư Sơn, dịch Đạt Ma
    Đa La Thiền Kinh hai quyển, ngài Cưu Ma Thập có dịch Thiền Bí Yếu Pháp
    Kinh ba quyển, Tọa Thiền Tam Muội Kinh hai quyển, Thiền Pháp Yếu Giải
    hai quyển, Tư Duy Lược Yếu Pháp một quyển… Ngoài ra còn nhiều lắm
    chẳng thể kể xiết.

    Các Kinh kể trên phần nhiều thuộc pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, các sư
    như An Thế Cao và Giác Hiền chuyên hoằng về pháp Thiền Tiểu thừa, Cưu
    Ma Thập là người Đại thừa mà dịch Thiền Kinh chẳng giống Đại thừa, cho
    đến Đạt Ma Đa La Thiền Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh xưa kia được
    xem là Đại thừa Thiền, nhưng ở trong cũng xen vào Thiền Trung thừa và
    Tiểu thừa. Đủ thứ pháp Thiền kể trên gọi là Thiền Số Chi Học, khác hẳn với
    Thiền “chẳng lập văn tự” của Thiền tông.

    Thiền Số Chi Học là Thiền tu tập theo thứ lớp, từ nhân đến quả, mà pháp
    Thiền của tổ Đạt Ma là chỉ thẳng bản tâm, đốn ngộ thành Phật, chẳng có giai
    cấp và thứ lớp. Người ta thấy đệ tử ngài La Thập là Đạo Sanh có cái thuyết
    “Đốn ngộ thành Phật”, bèn cho Thiền tông xuất phát từ Cưu Ma La Thập, ấy
    là sai lầm.

    Cùng thời với tổ Đạt Ma có Bửu Chí hòa thượng, Bố Đại Sĩ, Hàn Sơn, Thập
    đắc, Bố Đại hòa thượng, đều là người minh tâm kiến tánh, nhưng thừa kế
    thầy nào chẳng rõ, sở duyên ngộ đạo cũng chẳng thể khảo sát.


    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  7. #6
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    5- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA

    Trước khi tổ Đạt Ma chưa đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều Trung,
    Tiểu nhị thừa, kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi
    ly, học giả ít được chứng ngộ. Khi tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn
    Tâm địa của Như lai, pháp ấy lại giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương
    yếu của giáo môn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Từ đó pháp
    Thiền riêng mở một trạng thái mới lạ. Lúc ban sơ vì phương pháp cao siêu,
    ít người được khế hội, nên ngồi im lặng chín năm để đợi người đặng truyền
    thừa, về sau ngày tin càng đông thêm, sự ảnh hưởng làm cho pháp Thiền và
    giáo lý đã truyền từ xưa bị lay động, nên đã sáu lần bị đầu độc, nhưng pháp
    môn trực chỉ của Thiền tông đã thay thế cho địa vị pháp Thiền cũ mà thịnh
    hành khắp Trung Quốc.

    Xem qua lời vấn đáp của tổ Đạt Ma đều là pháp chỉ thị Phật tánh, thẳng vào
    cội nguồn Bản thể. Trong Truyền Đăng Lục có ghi: “Nhập Đạo Tứ Hạnh”
    của Tổ dạy, cứu xét kỹ do người khác giả mạo, so với ý nghĩa lời nói của
    Ngài hoàn toàn khác hẳn, như trong bài nói “Bỏ vọng về chơn”, “Im lặng
    ngó hẳn vách tường”, “Dứt tưởng chẳng cầu, có cầu đều khổ, chẳng cầu mới
    vui”, “Chẳng có bỏn xẻn đối với thân mạng tiền tài, theo hạnh xả bỏ bố thí,
    tâm chẳng hối tiếc”… Những lời này toàn là lời dạy của Trung, Tiểu nhị
    thừa, so với lời “Quách nhiên vô thánh”, “Vô hữu công đức” của tổ Đạt Ma
    thì ý chỉ tuyệt nhiên xa cách, trí thông với nghẽn đã phân biệt rõ ràng.
    Thiền tông sau khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu có tu thì chẳng phải triệt
    ngộ, tổ Đạt Ma là bậc Thánh đã ngộ, đâu cần hướng vách tu thiền! Lại từ
    xưa nay chư Tổ của Thiền tông đều phản đối sự lắng tâm tĩnh tọa, Lục Tổ
    nói: “Kẻ mê lắng tâm tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, bọn này
    chẳng thể dạy bảo, vì tà kiến đã sẵn”. Lại nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh
    chẳng phải Thiền, ngồi lâu trói thân, có ích lợi gì!”

    Pháp Thiền của tổ Đạt Ma phế bỏ hư văn, chỉ ngay thực tế, khiến người đốn
    ngộ cội nguồn, thẳng chứng quả Phật, nên được quét sạch những tệ đoan
    phức tạp và chi ly, khiến Thiền học từ suy sụp trở thành thịnh vượng, thành
    một Tông phái lớn. Ngài truyền kinh Lăng Già để ấn tâm, và chư Tổ đời sau
    dùng hét dùng gậy, dùng phẩn nộ chửi mắng, cho đến dùng nhướng mày
    chớp mắt để tiếp dẫn hậu học, với Tông chỉ Lăng Già, niêm hoa thị chúng
    đều chẳng khác biệt.

    Tổ Đạt Ma được tôn làm Sơ Tổ của Thiền tông, truyền cho nhị tổ Huệ Khả,
    tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đến lục tổ Huệ Năng,
    môn đồ của Lục Tổ ngộ đạo rất nhiều, Thiền phong đại thịnh, Tứ Tổ có chi
    nhánh Pháp Dung thiền sư ở núi Ngưu Đầu, cũng rất thịnh vượng, người đời
    xưng là Ngưu Đầu Thiền, hành trạng và lời khai thị của chư Tổ đều có ghi
    trong Truyền Đăng lục.






    Coi Nguon TT - 12.jpg Coi Nguon TT - 13.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

  8. #7
    Avatar của choconxauxi
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    471
    Thanks
    388
    Thanked 317 Times in 168 Posts
    CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
    Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
    __________________________________________________ ______________________________________


    6- LỤC TỔ HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN

    Tổ Đạt Ma truyền pháp Thiền trực chỉ của Phật Thích Ca, đến lục tổ Huệ
    Năng được phát huy cùng tột, từ đó Thiền tông được đại thành tựu. Lục Tổ
    vốn là một Sa môn không biết chữ, nhưng trí huệ tuyệt đỉnh, phàm sở phát
    huy đều xuất phát từ biển giác của Như lai, trực tiếp rốt ráo, cắt đứt tất cả
    dây dưa, trừ bỏ tất cả sai lầm, rất là thân thiết, rất là thấu triệt.

    Trước kia trong Phật giáo đối với lý đốn tiệm của Pháp thân tự tánh, phần
    nhiều kẹt nơi văn tự. Lục Tổ trực tiếp chỉ ra, như thổi tan mây mù mà bỗng
    hiện trong sáng, chẳng còn một hạt bụi để ngăn cách, do đó Thiền tông
    truyền bá rất rộng, người được lợi ích rất nhiều, cho đến kẻ cu ly hạ tiện, bà
    già tay bưng vai gánh rêu rao mua bán ngoài đường đều biết Tham thiền,
    đều được ngộ đạo. Từ lúc ấy, người minh tâm kiến tánh chẳng thể kể xiết,
    thật là việc hưng thịnh từ xưa nay chưa từng có.

    Bản sắc “chẳng lập văn tự” của Thiền tông từ Sơ Tổ cho đến ngũ tổ Hoằng
    Nhẫn, những lời dạy bảo truyền thừa rất ít, đến lục tổ Huệ Năng mới có kinh
    Pháp Bảo Đàn ra đời, pháp Thiền của tổ Đạt Ma tới đây mới được trọn vẹn
    hiển bày. Lý đạo phát huy trong kinh Pháp Bảo Đàn hoàn toàn xuất phát từ
    tự tánh, mỗi lời mỗi chữ đều chẳng lìa tự tánh, bởi vì sau khi chứng ngộ thì
    trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đem ra đều là tự tánh.

    Pháp của Lục Tổ nói là: Trì tự tánh giới, phát tự tánh nguyện, nhờ tự tánh
    lực, độ tự tánh chúng sanh, quy y tự tánh Phật. Lục Tổ nói: “Thiện tri thức,
    nơi niệm niệm tự thấy bản tánh trong sạch, tự tu, tự hành, tự thành Phật
    đạo”. Lại nói: “Pháp sở thuyết của ta chẳng lìa tự tánh, nếu lìa bản thể thuyết
    pháp gọi là tướng thuyết, làm cho tự tánh thường mê. Phải biết tất cả vạn
    pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là Giới, Định, Huệ chơn thật”.

    Thiền tông lấy Niết bàn diệu tâm làm bản thể. NIết bàn diệu tâm tức là Lục
    Tổ nói: “Bản nguyên tự tánh”, vậy kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu khởi chơn
    chánh Bát nhã, trong một sát na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh, hễ ngộ
    liền đến địa vị Phật. Thiện tri thức, trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng tỏ,
    nhận tự bản tâm, nếu nhận được bản tâm, tức vốn giải thoát; nếu được giải
    thoát tức là Bát nhã tam muội”.

    Thế nào là Bát nhã Tam muội? Người tham thiền cần phải biết rõ, nay đặc
    biệt giảng rõ như sau:
    Bát nhã có ba thứ:
    1/ Thật tướng Bát nhã (Thể).
    2/ Quán chiếu Bát nhã (Trí).
    3/ Phương tiện Bát nhã (Dụng).


    Nói một cách khác: Thật tướng bát nhã tức là Phật tánh, quán chiếu Bát nhã
    là kiến, văn, giác, tri, phương tiện Bát nhã tức là lục căn. Lúc đang tu hành,
    dùng quán chiếu Bát nhã làm chủ, sai khiến phương tiện Bát nhã để đập tan
    vô thỉ vô minh thì chứng Thật tướng Bát nhã. Sau khi chứng ngộ, Thật
    tướng tức là Bản thể Phật tánh, quán chiếu phương tiện là diệu dụng Phật
    tánh. Thật tướng là Định, quán chiếu phương tiện là Huệ; Thật tướng (Phật
    tánh) là Pháp thân, quán chiếu (kiến văn giác tri) là Báo thân, phương tiện
    (lục căn) là Ứng thân, ba tức một, một tức ba, gọi là nhất thể tam thân, thể
    dụng như một, Định, Huệ bình đẳng, diệu dụng Hằng sa.

    Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Tâm lượng rộng lớn, cùng khắp pháp giới, dụng
    tức liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả là một, một là tất cả,
    khứ lai tự do, tâm thể vô ngại, tức là Bát nhã”. Lại nói: “Tất cả trí Bát nhã
    đều từ tự tánh mà ra, chẳng từ ngoài vào, chớ nhận lầm tự tâm, gọi là Chơn
    tánh tự dụng”.

    Về việc phá tan vô thỉ vô minh, kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nên dùng đại Trí
    huệ (quán chiếu Bát nhã) phá tan ngũ uẩn trần lao (vô thỉ vô minh), tu hành
    như thế nhất định thành Phật”. Lúc dụng công phu tham thiền, dùng trí huệ
    Bát nhã hướng ngay chỗ hầm sâu vô minh chiếu soi, chiếu đến khi sơn cùng
    thủy tận, cơ duyên thuần thục, “Ồ” lên một tiếng thì hầm sâu vô minh bị phá
    tan, trong một sát na Phật tánh được hiện tiền, kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay
    đó hoát nhiên, liền đắc bản tâm” là vậy, lúc ấy Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhãn,
    Lục thông, viên mãn cụ túc, chẳng thiếu chẳng dư, gọi là Bát nhã tam muội,
    cũng gọi là Minh tâm kiến tánh.






    Coi Nguon TT - 14.jpg Coi Nguon TT - 15.jpg

    Thanh thanh thúy trúc, tổng thị Pháp thân,
    Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •