CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
__________________________________________________ ______________________________________
Kỳ thật quả đã được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho
nên nói là Thiền Đốn Ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là “Chẳng lập
văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Tại sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn tự là một tên gọi
giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc
gián tiếp, còn bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự thực tế
rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến được, vậy
cách gián tiếp ngôn ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật
Thích Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng nói một chữ”, lại nói:
“Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng
thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay
để chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một việc gián
tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một phương pháp để đạt đến bản thể
chơn tâm, nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại sự chỉ
thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến đời sau, có người lại nhận lầm
cho ngón tay tức là mặt trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của
Thiền tông bèn tùy nhu cầu thực tế mà ra đời, đồng thời phát triển rộng khắp
mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị
của văn tự vẫn được chư Tổ của Thiền tông chú trọng, cũng như tổ Đạt Ma
dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học.
Thế Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại chúng đều
ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp
nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu,
Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca
Diếp”. Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền tông căn cứ theo việc này lấy
Tâm truyền Tâm.
Coi Nguon TT - 01.jpg