CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA Tác Giả: Nguyệt Khê Thiền Sư
__________________________________________________ ______________________________________
TRUNG THỪA:
Cũng gọi là Duyên giác thừa, do quán nhân duyên mà ngộ
đạo. Xưa nay xưng Bích chi phật, dịch nghĩa là Độc giác. Pháp môn của
Trung thừa là Thập Nhị Nhân Duyên, tức vô minh duyên hành, hành duyên
thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc,
xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh,
sanh duyên lão tử. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ,
hiện tại, vị lai, tâm thế nhân quả tuần hoàn chẳng dừng.
Ở đây Vô minh là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất niệm vọng động,
chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền
não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là Hành, hai chi này là nhân đời trước.
Thức là nghiệp thức như thân trung ấm bị lôi kéo mà đến đầu thai; Danh sắc
là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành, tứ ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức chỉ
có tên gọi, chưa có thật chất; Lục nhập là nói ở trong thai lục căn đã hoàn
thành, là chỗ sở nhập của lục trần; Xúc là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc
lục trần; Thọ là lãnh thọ các cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả
đang thọ ở đời này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái; Thủ là chấp thủ việc
mình ham muốn; Hữu là có quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba
chi này là nhân sở đắc của đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo
ứng nghiệp quả. Sanh là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ
sanh nơi kiếp sau. Lão tử là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi
này là quả báo phải thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập Nhị Nhân Duyên.
Kẻ tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập Nhị
Nhân Duyên chi phối, mà Thập Nhị Nhân Duyên thì nương nhất niệm vô
sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu
cánh, nếu được đoạn dứt nhất niệm này thì vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát sanh tử.
Nên cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến
cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết bàn,
chẳng biết đã lọt vào vô thỉ vô minh. Cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả,
cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá! Huống
chi nhất niệm vô minh dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên
sở chứng của Trung thừa vẫn chưa cứu cánh.
ĐẠI THỪA:
Cũng gọi là Bồ tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba la mật, cũng gọi
là Lục độ. Sáu Ba la mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na,
Bát nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ đề dịch là Giác, Tát
đỏa dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ tát,
tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ đề, lấy tâm Bồ đề làm thể để tự độ; lấy
tâm Đại bi làm dụng để độ tha, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa. Phẩm
Thí Dụ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn
nghe pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí,
vô sư trí, Vô sở úy, dùng sức tri kiến của Như lai thương xót vô lượng chúng
sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại thừa.
Lục độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ
yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá,
nên lợi dụng nhất niệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến
tánh, ấy là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua
cướp (vô thỉ vô minh) vậy.
TỐI THƯỢNG THỪA:
Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh,
hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng
với kẻ chứng mới biết nhau được. Nên Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mỉm
cười; Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, dùng tâm ấn tâm, khế hợp ăn
khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột,
chẳng còn gì hơn nữa, ấy gọi là Tối thượng thừa thiền.
Tiểu thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn
vô thỉ vô minh, Tối thượng thừa trực chỉ Chơn như Phật tánh, đây là đại ý
của bốn thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người
tự có sai biệt mà hình thành; thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa; hiểu nghĩa
ngộ pháp là Trung thừa; y pháp tu hành là Đại thừa; vạn pháp đều thông, vạn
pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là
Tối thượng thừa”. Thế thì, đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.
Triệu Châu hòa thượng nói: “Ta Chẳng thích nghe một chữ Phật”, còn nói:
“Hễ lão Tăng niệm Phật một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ
lời này thì chẳng bị bốn thừa trói buộc.
34 Coi Nguon TT.jpg