GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ Phần 2
__________________________________________________ ______________________________________
Giữa hai loại của Tâm linh Tỉnh Thức – tâm linh khao khát tỉnh thức và tâm linh mạo hiểm hướng đến tỉnh thức. Bây giờ với chúng ta nên tập trung thật sự vào cái trước. Tâm linh mạo hiểm hướng đến tỉnh thức đòi hỏi nền tảng vững chắc trong việc lắng nghe, tư duy, và thiền định, cũng như rèn luyện tất cả sáu hoàn thiện (lục ba la mật). Điều này thật không dễ dàng. Hãy nuôi dưỡng chính bạn như cha mẹ nuôi con. Hãy tự chăm sóc, cho chính bạn ăn bằng thực hành và cuối cùng khi đến lúc trưởng thành tâm linh bạn sẽ có khả năng làm bất cứ điều gì cần thiết. Nếu bạn thật sự muốn phục vụ Giáo Pháp và chúng sanh, hãy sử dụng những gì bạn đã có để đáp ứng lý tưởng cao thượng và tôn quý này, cụ thể là sử dụng thân, khẩu, ý của bạn. Ví dụ, với thân, bạn có thể cúng dường đảnh lễ và tham gia vào các thực hành sùng kính khác nhau. Về mặt phục vụ chúng sanh hãy thực hành hoàn thiện thứ nhất, sự hoàn thiện của rộng lượng (bố thí ba la mật). Hãy bố thí và giúp ích theo cách mà bạn có thể, hoặc vật chất hay cách khác. Sau đó thực hành dần dần hết năm hoàn thiện khác. Hãy trau dồi và thực hành các hoàn thiện trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Phát triển qua rèn luyện trong các thực hành này một cách dần dần, tích lũy công đức và tịnh hóa dòng tâm thức bạn. Đó chính là cách phục vụ chúng sanh thiết thực bằng phương tiện của thân, khẩu và ý bạn. Song, nếu không có bất cứ kinh nghiệm thực sự nào về Đại Viên Mãn, những khó khăn sẽ xuất hiện từ việc cố giảng dạy nó. Trái lại, nếu áp dụng giáo lý này vào thực hành, sự nhận biết sẽ dần dần xuất hiện, và bạn sẽ ở vị trí chia sẻ giáo lý này với người khác.
Một nguồn kinh điển khác về bốn loại đại giải thoát là Tantra Nguyên Thủy về Âm Thanh Thấm Nhuần:
Tánh giác (sự nhận biết) của chính bạn thoát khỏi sự khái niệm hóa nên nó có bốn loại đại giải thoát. Vì nó giải thoát bổn nguyên (là quan điểm không thay đổi bất cứ thứ gì), đó là không có nền tảng thêm vào. Vì nó tự giải thoát (là quan điểm không nghiên cứu tra xét) nên không có sự giải độc. Vì nó giải thoát lập tức (là quan điểm hãy để nó trong trạng thái của riêng nó), nó biến mất ngay nơi nó được thấy. Vì nó hoàn toàn giải thoát, nên không có nỗ lực.
Sự giải thoát bổn nguyên hiện nay có nghĩa chẳng có gì đặc biệt để làm và không có gì cần thay đổi , vì sự nhận biết là giải thoát bổn nguyên giống như mặt trời hiện diện từ ban sơ, ngay cả dù nó có thể bị mây tạm thời che phủ. Vì sự nhận biết tự giải thoát nên không cần giải độc khác như thiền định. Tuy nhiên, cho đến khi chúng ta vẫn còn đang trên con đường, những kỹ thuật thiền định là cần thiết; nói một cách thực tế chúng ta cần phải sử dụng chúng.
Về mặt giải thoát tự nhiên của sự nhận biết, không phải nhận biết biến mất “ngay nơi nó được thấy” mà đúng hơn là ngay lúc nhận ra bản tánh của nhận biết, mọi bất tịnh và che ám biến mất lập tức. Điều này giống như sự tương tự của sợi dây mà tưởng là con rắn. Ngay khi bạn thấy nó thực sự là một sợi dây, toàn bộ hình tướng của con rắn lập tức biến mất. Vì thế, không có gì cần tác động vào tâm để làm mất tác dụng những bất tịnh và làm nó biến mất. Chẳng có điều gì làm chúng biến mất hay bất cứ thứ gì ngăn cản chúng khỏi biến mất. Sự nhận biết là “hoàn toàn giải thoát,” vì sự giải thoát tuyệt đối, hoàn toàn của nó về mặt bên trong và bên ngoài và về mặt ba thời – quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó không cần nỗ lực sử dụng thân, khẩu và ý để giải thoát nó.
Chuỗi Ngọc Trai trình bày:
Vì nó giải thoát bổn nguyên nên cao quý vĩnh viễn. Vì nó tự giải thoát nên hoàn cảnh khách quan bị cạn kiệt. Vì nó giải thoát lập tức nên hình tướng là thanh tịnh. Vì nó giải thoát khỏi các cực đoan nên bốn lựa chọn được tịnh hóa. Vì nó giải thoát khỏi tính độc nhất nên vô số trở nên trống rỗng.
Trong sự tự giải thoát của nhận biết, nguyên nhân và hoàn cảnh hoàn toàn biến mất. Trong sự giải thoát tức thời của nhận biết, hình tướng là thanh tịnh bổn nguyên. Sự thanh tịnh như vậy không xảy ra sau một lúc nào đó và cũng không đến từ bất cứ đâu khác hơn là chính bản tánh của nhận biết. Sự nhận biết giải thoát khỏi mọi thái cực của thường kiến, đoạn kiến v.v.. “Bốn lựa chọn” là hiện hữu, không hiện hữu, cả hai hiện hữu và không hiện hữu, và chẳng hiện hữu cũng không phi hiện hữu. Sự nhận biết giải thoát khỏi bất cứ bốn lựa chọn này. Vì nó là bản tánh duy nhất của toàn thể luân hồi và niết bàn, nên sự nhận biết là “vô số trở nên trống rỗng.”
Do đó, vì mọi âm thanh và sắc tướng vẫn trong bốn loại giải thoát, chúng không bị trói buộc bởi bất cứ thứ gì. Mọi sự đều tự hiện từ trạng thái của chính nó và tự-giải thoát. Bất cứ những gì xuất hiện đều thoát khỏi ba thái cực, sinh, trụ và diệt, nên tự thân thực tại là sự tự-xuất hiện. Do đó, chỉ tùy theo vị thầy tâm linh chỉ ra điều này, một khi biết tự thân thực tại là tự-xuất hiện bạn sẽ nhận ra sắc tướng và ý thức như tự thân thực tại.