Kinh THỦ LĂNG NGHIÊM trực chỉQUYỂN 7 PHẦN 2__________________________________________________ ______________________________________
5. CÓ SẮC (Loài có hình sắc)
Nhân trong thế giới “lưu ngại” luân hồi, điên đảo về chướng, nên hòa hợp với trước thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy, nên có yết-nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, các loài hưu cữu, tinh minh đầy dẫy.
Chấp cứng cái vọng tưởng tinh minh thành ra có hiển trước. Nên trên từ cửu diệu (mặt trời, mặt trăng, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, la hầu, kế đô) dưới đến ngọc trai tuy tột chỗ thần diệu, chỉ là sắc tướng, lành thì thuộc loại hưu trưng, dữ thì thuộc loài cửu trưng, đều là một loại vậy. Kinh Niết-bàn nói: “Trong tám mươi mốt vị thần, gốc đều nhân nơi tưởng lưu ngại mà thành các sao tinh diệu”.
6. KHÔNG SẮC (Loài không có hình sắc)
Nhân trong thế giới “tiêu tán” luân hồi, điên đảo về hoặc, nên hòa hợp với ám thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng thầm ẩn, vì thế, nên có yết-nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, các loài không tán, tiêu, trầm đầy dẫy.
Nhàm chán có để trở về không, chẻ sắc làm không thành tối tăm bất giác. Trên hết là vô sắc, chính giữa là chủ thần kỳ, dưới tột quỉ mị u ẩn đều là một loại này vậy.
7. CÓ TƯỞNG (Loài có tưởng)
Nhân trong thế giới “võng trượng” luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hòa hợp với ức thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng tiềm kết, vì thế có yết-nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước, các loài thần quỉ, tinh linh đầy dẫy.
Mờ tối không chủ, không mà có tưởng nhớ, dường như sáng, dường như tối, bỗng có mà không, tham mộ sự linh thông tuỳ theo chỗ nhớ tưởng mà hiện ra các thứ quỉ u ám, là chỗ của các loài quỉ kia thành.
8. KHÔNG TƯỞNG (Loài không có tưởng)
Nhân trong thế giới “ngu độn” luân hồi, điên đảo về si, nên hòa hợp với ngoan thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng khô cảo, vì thế có yết-nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước, các loài tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá đầy dẫy.
Ở đây có hai loại, một là sự huân tập ngu độn đời trước, hai là do pháp tu tập khô cảo khôi tâm, diệt trí đồng như cây đất; trên tột trời vô tưởng, sức định đến tám muôn kiếp, rốt sau đọa xuống địa ngục; dưới đến tinh thần hóa làm vàng đá, như Hoa biểu thành tinh, Hoàng đầu hóa làm đá, đều là loài này ứng hiện.
9. CHẲNG PHẢI CÓ SẮC
Nhân trong thế giới “tương đối” luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hòa hợp với nhiễm thành tám muôn bốn ngàn loạn tưởng nhân y, vì thế có yết-nam chẳng phải có sắc tướng mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước, các loài thủy mẫu (sứa) v.v… lấy con tôm làm mắt đầy dẫy.
“Nhân y” là nhân nương nơi kẻ khác để lợi ích cho mình, khéo mượn hư dối. Như con thủy mẫu (sứa) không có hình sắc mượn con tôm làm con mắt, nắm lấy vật thành thân thể ăn nhờ mà gá mạng sống, mê mất thiên chân, một phen đến đổi như ở đây vậy.
10- CHẲNG PHẢI KHÔNG SẮC
Nhân trong thế giới “tương dẫn” luân hồi, điên đảo về tính, nên hòa hợp với chú mà thành ra tám muôn bốn ngàn loạn tưởng hô triệu, vì vậy thành có yết-nam, chẳng phải không sắc tướng mà không sắc trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yểm sinh các loài đầy dẫy.
Vốn tự không có sắc, nhân nơi chú trớ, hô triệu mà thành tinh mị. Đây là do tự nó không có chủ chỉ theo bóng, gá với tiếng, thậm chí tiếng dâm, lời bi xen lẫn nhau mà dẫn đến có cử động. Do thói quen thành tính, nghe tiếng vang mà đến ở đây in tuồng như có sắc mà không phải sắc, nên gọi là không phải không sắc.

Trả lời với trích dẫn