Từ Đạo Hạnh mất cha, đau buồn nên không muốn làm gì ngoài việc nung nấu ý chí phục thù cho cha mình. Một lần cầm gậy rình định giết pháp sư Đại Điên, nhưng biết mình không có pháp thuật thì không làm gì được kẻ thù, nên nảy ý định tầm sư học đạo, bèn lặn lội đường xa cùng với hai bạn là Minh Không và Giác Hải sang Ấn Độ ở Tây Thiên học pháp thuật về báo thù. Sau khi sang Tây Thiên học đạo rồi, Từ Đạo Hạnh trở về ẩn trong chùa Thiên Phúc núi Phật Tích, nhất tâm trì niệm “Đại Bi Tâm Đà La Ni” đủ mười vạn tám nghìn biến, đạt được pháp thuật viên mãn, liền tìm Đại Điên để trả thù cho cha. Gặp được Đại Điên, Từ Đạo Hạnh đánh cho một gậy, khiến Đại Điên về ngã bệnh mà lìa đời. Thù xưa rửa sạch, hận lòng nguôi tan, Ngài mới đi khắp nơi để cầu ấn quyết, được gặp cao tăng khai tâm điểm đạo về “chân tâm”, liền trở về lại chùaThiên Phúc để tu đạo, luyện thêm pháp thuật và bắt đầu dùng pháp thuật cao siêu để chữa bệnh cho dân trong vùng, tiếng thơm được lan truyền… Bấy giờ vua Lý Nhân Tông không có con trai, cầu tự mãi cũng không được. Nghe đồn ở bãi bể Thanh Hoa có một cậu bé tuổi mới lên ba đã xưng tên là Giác Hoàng, việc gì cũng biết, nhà vua vội tìm đến gặp có ý định nhận làm con nuôi, nhưng quần thần can ngăn. Từ Đạo Hạnh tuy đang ở tận chùa Thiên Phúc nhưng vẫn hay tin, và đoán biết rằng Giác Hoàng chính là Đại Điên đầu thai để tìm cách báo thù mình, nên đã dùng mấy tấm bùa nhờ chị gái đem đến nơi Giác Hoàng đang sống để yểm. Ba ngày sau, Giác Hoàng bệnh nặng, trối với mọi người: “Khắp nơi đều có lưới sắt bủa vây, ta muốn đầu thai làm con nhà vua mà không cách nào đi được, nay đành chịu xuống âm phủ vậy!”, rồi tắt thở. Vua Lý Nhân Tông nghe tin liền nổi giận, sai quan quân bắt Từ Đạo Hạnh về giam trong hoàng cung. Người em của vua là Sùng Hiền Hầu (cùng là con Lý Thánh Tông và Ỷ Lan Thái Hậu) nghĩ rằng Từ Đạo Hạnh đã trừ được Giác Hoàng thì chắc cũng có pháp thuật cao cường để ban cho mình mụn con để sau này được nối ngôi vua, bèn đứng ra xin can gián với vua tha cho Từ Đạo Hạnh, rồi mời Ngài về nhà ở một ngày. Cảm ân cứu mạng của Sùng Hiền Hầu, Từ Đạo Hạnh nhận lời giúp ân nhân có con trai quý tử, căn dặn Hầu trước khi chia tay: “Khi nào phu nhơn khai hoa nở nhụy thì báo gấp cho tôi biết trước!”.
Một thời gian sau, quả nhiên phu nhơn Sùng Hiển Hầu có thai, rồi đến kỳ sinh nở, vội báo tin cho Từ Đạo Hạnh biết. Nhận được tin, Ngài tắm rửa, thay áo, gọi đồ đệ lại dặn rằng: “Nhân duyên của ta chưa hết, ta phải tạm thác sinh làm đế vương trong thời hạn gần một kỷ (12 năm). Đến lúc ấy, nếu thấy thân thể ta rữa nát thì mới là lúc ta vào cõi Niết Bàn, vì vậy bây giờ các ngươi đừng than khóc tiếc nuối làm gì!”. Dứt lời thì Ngài bỏ đi vào núi mà hóa, nhằm ngày mồng bảy tháng ba Âm lịch. Đúng vào ngày giờ Ngài hóa là lúc phu nhơn Sùng Hiền Hầu trở dạ hạ sinh được một con trai, đặt tên là Dương Hoán. Lạ thay, cậu bé mỗi ngày mỗi khác, nuôi nấng sơ sài mà chóng lớn, chưa học hành mà đã bộc lộ thông minh, càng lớn càng đẹp người, khi ba tuổi được Lý Nhân Tông đưa vào cung nuôi dạy rồi lập cho làm Hoàng Thái tử. Khi vua Nhân Tông băng hà, Thái tử được lên làm vua, lấy hiệu Thần Tông. Lý Thần Tông tức là hóa thân của Từ Đạo Hạnh. Năm 21 tuổi, vua Lý Thần Tông bỗng nhiên mắc bệnh quái lạ, mình mẩy mọc đầy lồng lá, tâm thần bấn loạn, rống tiếng kêu như hổ, danh y khắp nơi được triệu vào hoàng cung chữa bệnh cho vua nhưng ai nấy cũng đều bó tay. Bấy giờ, từ Thần Quang Tự tỉnh Ninh Bình (Chùa Keo nay thuộc tỉnh Thái Bình), thiền sư Minh Không (Không Lộ) lặn lội vào cung chữa cho vua khỏi bệnh bằng pháp thuật cao cường, được vua ban cho nhiều bổng lộc và phong làm “Lý Triều Quốc Sư” (sau này dân gọi tắt là Lý Quốc Sư). Thiền sư Minh Không ngoài công lớn chữa bệnh cho vua, còn có công sang Trung Quốc xin đồng về đúc Tứ Đại Khí (gồm chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm và Vạc Phổ Minh) cho nước nhà, và trở thành ông Tổ đúc đồng của Việt Nam. Về vua Lý Thần Tông, đúng như đại thánh Từ Đạo Hạnh đã báo trước cho đồ đệ khi Ngài hóa, là chỉ tạm thời làm vua trong thời gian gần một kỷ, sau khi khỏi bệnh quái, nhà vua sống thêm được hai năm thì băng hà vào năm 1138, hưởng dương 23 tuổi. Khi nhà vua mất, ở Thiên Phúc Tự núi Sài Sơn tự nhiên có khí thiêng bốc lên, ai thấy cũng kinh hãi. Chuyện đến tai vua Lý Anh Tông (con Lý Thần Tông), nhà vua vội sai đại thần đến làm lễ tế, tôn phong Từ Đạo Hạnh làm “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”, khi ấy thân xác của Ngài vẫn còn nguyên trong khám thờ, không bị hủy hoại và còn có hương thơm thoang thoảng. Từ đó, trải qua bao triều đại đất nước thăng trầm thịnh suy, Thiên Phúc Tự nổi tiếng linh thiêng với tên gọi là chùa Thầy…

Trả lời với trích dẫn