GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Nếu bạn có vài xác quyết rằng tánh không và duyên khởi không mâu thuẫn, mà bao hàm lẫn nhau, thì bạn sẽ hiểu những điều thực tế như duyên khởi và nhân quả. Bạn càng thấy giá trị của tánh không và duyên khởi nhiều hơn nữa, bạn sẽ có lòng bi mẫn, tâm bồ đề, và sẽ thực hành mọi lời khuyên, và tu tập một pháp tu không thiếu phương pháp cũng không thiếu trí tuệ. Có người không làm vậy, lại xem nhân quả như là chuyện dành cho người sơ học, và chỉ rút ra vài chỉ giáo đặc biệt cho đệ tử họ làm theo. Những giáo lý không đặt nặng nhân quả như thế thì không khác gì chủ nghĩa khoái lạc của Thuận thế ngoại đạo.
a-2.2.2. Xác định tính phi hữu của các pháp
Có hai: (1) hữu vi pháp không thực có; (2) vô vi pháp không có thực.
(i) Xác định các pháp hữu vi không tự nhiên mà có
Có ba phần: (1) xác định rằng sắc pháp (thuộc vật lý) không tự nhiên mà có;(2) xác định rằng tâm pháp không tự nhiên có; (3) xác định rằng những bất tương ưng hành không tự nhiên có.
(1) Xác định sắc pháp không tự nhiên có
Bạn phải sẵn sàng áp dụng cho các hiện tượng khác sự xác định mà bạn có thể có được về sự kiện một con người không hiện hữu biệt lập, có tự tính riêng. Một kinh nói:
Hãy áp dụng cùng một cách suy nghĩ ấy đối với mọi sự.
Như thái độ bạn đã có đối với ngã.
Aryadeva nói trong Bốn trăm bài kệ:
Sự thấy đúng đối với một pháp
Cũng là cái thấy đúng với tất cả mọi sư.
Tánh không đã đúng ở nơi một pháp
Cũng đúng cho tất cả pháp.
Vậy trước hết chúng ta xác định các sắc pháp không tự nhiên hiện hữu.
Cái tâm nằm trong dòng tâm thức của phàm phu chúng ta đã bị nhiễm vô minh, nên mỗi khi các sắc pháp vân vân hiện ra trước mắt ta, cái kiểu xuất hiện của chúng không khác gì là những vật có tự tính thật. Cái cách các pháp xuất hiện cũng là cách mà ngã - đối tượng cần bác bỏ - xuất hiện cho chúng ta, và ta phải bác bỏ những tướng giống như thật ấy.
Mọi hiện tượng (pháp) đều là những điển hình của duyên khởi, nghĩa là chỉ một nhãn hiệu được gán lên một vật, vật này là một hợp thể dùng căn bản để gán nhãn hiệu lên đấy. Lấy ví dụ cái bình. Đối với tâm thức phàm phu chưa đạt đến tri kiến tánh không, thì cái bình không có vẻ gì là một pháp giả danh, trái lại, cái tên bình và hiện tượng “bình” - vật được gán tên - hòa lẫn vào nhau một cách chặt chẽ đến nỗi cái bình như là một cái gì hiển nhiên thực có tự tính. Đây là cách xuất hiện của đối tượng cần bác bỏ (nhân ngã hay pháp ngã - DG) nó có thể xuất hiện như thế, nhưng khi bạn theo đuổi luận cứ cho rằng cái giả danh bình và hiện tượng bình tách rời nhau, thì bạn sẽ thấy rằng cái bình, mà bản năng xem là thực hữu, không thể được xem là một với giả danh cái bình. Hơn nữa, thì bạn áp dụng tiến trình loại bỏ cái được gọi là bình, thì những gì còn lại không có tướng gì là bình để bạn có thể chỉ ra. Thay vì thế, cái bình theo thông tục xuất hiện theo giả danh gán cho nó - nghĩa là toàn bộ miệng bình, bụng, đáy vân vân. Vậy bạn giả thiết rằng bình chỉ hiện hữu theo tục đế, vì nó không thể lập như một cái gì thực hữu tách rời với giả danh.
Vậy, nói chung, nếu một vật hiện hữu, nó phải hiện hữu hoặc đơn chiếc hoặc số nhiều. Cũng thế, nếu nó được lập là thật pháp, thì nó phải thật theo kiểu số ít hoặc số nhiều; nếu không thuộc số nào trong đó cả thì không thể là thực hữu. Vì lý do ấy, bình vân vân không thể chấp nhận được lập là thực hữu.
Tóm lại, từ cái bình suy ra, tất cả sắc pháp đều phải nương vào giả danh, chúng không tồn tại như một cái gì thực hữu tự bản chất. Bốn trăm bài kệ nói:
Những pháp ấy thiếu sự tự do
Bởi thế bản ngã không thực hữu.
Một cái bình thông thường là một pháp đơn độc, nhưng không đơn độc từ bản chất, vì nó phải lệ thuộc nhiều yếu tố cấu tạo nên nó. Lại nữa, cái bình và cái cột có thể rời nhau, nhưng cả hai chỉ giả lập là rời nhau. Sự giả lập ấy sụp đổ khi người ta gom chúng lại thành một đôi. Chúng chỉ được giả thiết là tách biệt nhau, song về phần chúng, bình và cột không được lập là những vật tách biệt. Nếu chúng được lập là những pháp riêng rẽ thì mỗi cái phải có khả năng tự tách riêng của chính nó. Điều này có hậu quả phi lý rằng mỗi cái không phải là một cá thể riêng biệt. Do đó, mặc dù bình và cột riêng nhau, mà cái bình không phải là một cá thể đơn độc, nó chỉ được gán cho cái giả danh là “một” hay “tách rời.” Nó không có những đặc tính của một cái tự hữu nội tại. Tác phẩm Gốc rễ Trí tuệ nói:
Tính “khác” tùy thuộc vào sự có những cái khác:
Khác mà không có cái gì khác
Sẽ không phải là sự khác.
Nếu một cái gì là “khác”
Mà không có cái khác
Thì nó sẽ thành “khác” trên chính nó.