GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Tâm nhu nhuyến phát sinh trước, nhưng hỉ lạc của thân nhu nhuyến lại phát sinh trước hỉ lạc của tâm nhu nhuyến. Những luồng khí lực độc hại trong thân thể đã được dẹp yên, bạn cảm thấy thoải mái, mặc dù bạn cảm thấy một thứ áp lực nơi sọ tương tự cảm giác một bàn tay nói sờ lên cái đầu bạn mới cạo. Khi đạt đến điều này, là bạn đã làm cho an tịnh những trạng thái tâm độc hại làm chướng ngại sự thi hành một đức hạnh nào bạn muốn thi hành. Bạn đã phát sinh tâm nhu nhuyến. Rồi bạn phát triển thân nhu nhuyến như là hậu quả của tâm nhu nhuyến này, và những luồng khí lực bây giờ khéo thích ứng và tuần hành khắp châu thân. Thân thể bây giờ không còn những trạng thái độc hại, không cảm thấy sự bất tiện nào khi bạn thực hành những thiện hành. Nó có thể được sử dụng bất cứ cách nào bạn muốn. Thân thể mềm mại và nhẹ như bông; bạn cảm giác một hỉ lạc lớn lao do thân nhu nhuyến ấy, và thân có những lạc thọ vật lý tuyệt trần. Từ đó, mỗi khi bạn đi vào tịnh chỉ, bạn có cảm giác thân thể tan vào đối tượng quán, đối với bạn không có gì khác hiện ra, ngay cả thân thể, vân vân. Đây là kinh nghiệm về trạng thái xuất thần của tâm nhu nhuyến, và tâm khi ấy tràn ngập hỉ lạc đến độ hầu như không thể nào tiếp tục ở trong pháp quán. Trạng thái bị hỉ lạc tràn ngập này sẽ lắng xuống, và khi ấy bạn cảm thấy giảm bớt hỉ lạc phần nào. Trong lúc ở trong tâm trạng này, là bạn đã đạt đến loại nhu nhuyến bất động có tương đương của nó là tịnh chỉ tương đương với cận hành này được gọi là “bắt buộc” vì đấy là đạo lộ phải kinh quá, nếu không, bạn không thể đạt các loại thiền chứng như thế gian và xuất thế gian. Từ điểm này bạn có thể đạt những định chứng tiếp theo chứng một loạt - quả thế bạn có thể thành tựu cả tám thiền chứng thuộc sắc giới và vô sắc. Tuy nhiên điều này khá vô ích, bởi thế chúng ta không triển khai những định chứng sau này. Ngoại đạo từ bỏ những vọng tưởng rõ rệt tương ưng với những định chứng sắc giới lên cho đến Vô sở hữu xứ thuộc Vô sắc. Và khi đạt đến định tâm tương ưng với Hữu đảnh (sắc cứu cánh) thì họ cho đó là giải thoát; nhưng điều này tuyệt nhiên không giải thoát họ khỏi sinh tử luân hồi. Như quyển Ca Tụng những gì đáng Ca Tụng nói:
Những người này, bị mù lòa bởi vô minh
Không theo Pháp của Ngài.
Học có thể đạt đến cõi Hữu đảnh
Nhưng rồi vẫn lại đau khổ.
Một Kinh nói:
Người thế tục rất tập trung thiền định,
Như chưa bỏ được ngã chấp
Nên mặc dù thật nhọc công
Với sự nhất tâm quán tưởng
Mà vọng tưởng vẫn trở lại tàn hại chúng.
Có ví dụ sau đây. Một hành giả sau nhiều khó nhọc, đã trú nhiều năm trong định an chỉ thuộc cảnh giới Sắc cứu cánh (hữu đảnh). Chuột gặm hết mớ tóc dài của ông ta. Về sau khi để ý đến điều này, ông nổi cáu! Thế là thiền chứng của ông suy tàn, và ông đi đến các đọa xứ.
Khi đạt tâm tịnh chỉ thù thắng, bạn có được sự sáng suốt đến độ có thể đếm những cực vi trong bức tường, v.v… Mỗi khi một trong mười tướng xuất hiện trước mắt bạn - nghĩa là năm đối tượng giác quán (sắc pháp, v.v..), ba độc, đàn ông, đàn bà - bạn sẽ nhớ đến lỗi lầm của chúng và phát sinh nhàm chán. Bạn sẽ ít vọng tưởng hơn trước, những vọng tưởng đã có sẽ phai mờ. Bạn sẽ phát triển những thiện đức như nghĩ mình nên phối hợp tịnh chỉ với giấc ngủ, vì sự vững chải của hình ảnh quá mãnh liệt.
Ngày nay có những người tìm tri kiến trong các giáo lý về Đại thủ ấn và Dzogchen bằng cách tham chiếu những bản kinh văn giản lược thay vì y cứ những cổ thư vĩ đại. Những người như thế sẽ thấy khó đạt được cái gì thực có giá trị được bàn trong cổ thư như tâm tịnh chỉ. Nhưng tịnh chỉ là pháp mà chúng ta cùng có chung với ngoại đạo. Theo bản kinh gốc về đại thủ ấn, thì sự theo dõi vận hành của tâm chỉ có làm cho bạn quen thuộc vối sự thật tương đối về tâm. Bởi thế bạn có thể nghĩ rằng pháp thiền theo cách ấy là tốt, song kỳ thực đấy chỉ như lầm tưởng đồng và vàng. Bạn chỉ có nước lang thang không mục đích trên những đường tà. Bạn có thể tăng thêm hôn trầm của tâm mà lầm cho là thiền định, nhưng cái thiền định ấy còn không thể đưa đẩy bạn lên được…….. của cõi sắc và vô sắc. Bạn chỉ có tạo nhân cho……. một con thú chẳng hạn. Hiền giả Sakya nói:
Những người mù thường khiến cho thiền đại thủ ấn
Trở thành nhân tái sinh làm thú vật.
Người nào khá hơn thì sẽ rơi vào
Thứ định làm ngưng dòng tâm thức của thanh văn;
Hoặc tái sinh vào các cõi Vô sắc.
Bạn có thể phân tích bản chất của tâm là không màu sắc hình dạng, nhưng không kèm theo một căn bản nào trong ba căn bản của đạo lộ; hoặc bạn có thể quen thuộc với chỉ giáo: “Đừng truy tầm quá khứ, đừng tìm kiếm vị lai” (nghĩa là, chỉ an trú trong hiện tại khi bạn thiền). Những pháp thiền định nô lệ ấy chỉ khiến cho người đời trở thành trống rỗng vô vị; không đưa bạn đến những cấp bậc cao của đạo lộ. Nhưng kèm với bồ đề tâm, từ bỏ, chánh kiến và quy y, thì sự tu tập như thế trở thành pháp Đại thừa đưa đến giải thoát, trở thành pháp Phật. Bạn phải đi vào con đường không lầm lỗi này. Nếu không, một mình sự thực chứng bản chất của tâm - là trong sáng, trống rỗng không bám víu v.v… - mà thôi, thì không thể tấn công vào thành trì ngã chấp của bạn. Nhiều nhất là những thiền định về kiểu ấy sẽ đạt được những hiệu quả giống như những dụng công của ngoại đạo đạt được. Vậy đừng xem những con đường thấp kém ấy là tốt lành. Bạn phải biết phân biệt chánh đạo và những con đường chỉ có vẻ là chân chánh.