GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________


(iv) Cạm bẫy thứ tư: Không điều chỉnh (xả)

Khi tâm bạn trạo cử hoặc hôn trầm, thì sự “không điều chỉnh” một trong những phương thuốc chữa trở thành một cạm bẫy, và cạm bẫy này cũng có cách đối trị riêng. Khi sự tinh tấn đã khám phá ra trạo cử hoặc hôn trầm nào xảy đến, thô hoặc tế, thì bạn phải áp dụng thuốc chữa ngay không ngần ngại. Cách thứ bảy trong tám điều chính - sự điều chỉnh lại - chính thức là phương pháp đối trị sự điều chỉnh thứ tám - xả (còn gọi là không điều chỉnh hay phó mặc). Sự điều chỉnh cần phải được áp dụng trong tâm để đối trị lại sự phó mặc hay xả. Hai pháp này cũng như hai trinh sát thù nghịch: vừa khi trông thấy tên kia, tên này liền tốp y lại.

Vậy thì làm sao để áp dụng pháp đối trị này? Hôn trầm vi tế là một trạng thái hoạt động tâm ý lụn bại. Cả hai, sự lụn bại và hồn trầm đều có hậu quả giống nhau. Khi có hôn trầm vi tế bạn thấy rõ nét và vững chải hình ảnh quán, nhưng tính chất sự duy trì hình ảnh đã rớt mất, và bởi thế sự rõ ràng không còn mãnh liệt như trước. Khi có sự hôn trầm này thì không cần gián đoạn pháp quán vì chỉ cần bám riết lấy hình ảnh là đủ. Nhưng khi bám riết quá nhiều, bạn lại đâm ra trạo cử, và thế là lại phải buông ra. Đức Thế Tôn dạy:

“Nếu dây đàn quá căng, hãy nới dây; hãy siết hay nới dây đàn theo nhu cầu nhưng phải bồ đề nó đừng quá chùng, thì cuối cùng âm thanh tiếng đàn sẽ thanh thoát.”

Bạn nên làm như vậy: nới lỏng một chút khi bạn cảm thấy mình sắp trạo cử và siết lại một chút khi bạn cảm thấy sẽ hôn trầm nếu bạn nới thêm nữa. Chỉ có kinh nghiệm với vạch được lằn ranh giữa hai điều này. Nếu bạn không dùng tinh tấn để phân tách một cách thông minh, thì thật vô cùng khó khăn để thọc ngón tay vào. Bậc thậy Chandragomin nói:

Nỗ lực thì rơi vào trạo cử;

Bỏ nỗ lực thì sinh hôn trầm.

“Nếu tịnh chỉ khó đạt đến thế,

Thì tôi bận tâm làm gì:

Nó chỉ quấy rầy tâm tôi.”


Làm việc ấy có thể là chuyện nhọc tâm, nhưng trong tất cả kẻ thù, kẻ ở ngay trong nhà khó nhận ra nhất, và bởi thế cũng là kẻ nguy hiểm nhất. Cũng vậy, loại hôn trầm này dễ làm hại tâm tịnh chỉ của bạn nhất: do vậy cần phải có sự lên dây đàn vừa phải.

Vậy, mặc dù tâm bạn đã lên dây vừa phải, đôi lúc đối tượng quán của bạn lại mất tính rõ rệt mãnh liệt. Khi điều ấy xảy ra, thì sự nắm giữ đã tuột mất và hình ảnh không còn rõ như trước. Nếu tình trạng ấy tiếp tục thì hôn trầm thô đã trở về. Trái Tim của Trung Đạo nói:

Khi thiền quán về những đối tượng cao cả

Làm bạn buồn sầu, thì hãy thư dãn…


Lỗi là tâm bạn đang ở trong một gút mắc lớn; bởi thế bạn nên trầm tư một lát, không nghĩ tới pháp quán. Nếu vấn đề khi ấy vẫn không biến mất và khi trở lại với sự quán tưởng, tâm bạn vẫn buồn nản, thì có cách nào làm nó phấn chấn lên chăng? Có thể làm bạn tươi tỉnh lên bằng cách quán thật khó có được tái sinh thân người thuận lợi, hoặc quán những thiện đức của Ba ngôi báu, hoặc những ích lợi của sự thờ kính một bậc thầy, những lợi lạc của bồ đề tâm, v.v… Những điều này sẽ làm tâm bạn phấn chấn. Bạn cũng có thể tưởng tượng những tia sáng chiếu lên mình bạn, hoặc thiền quán về những chuyện như quán tưởng bố thí. Những thiền quán này sẽ nâng tâm bạn đến một cảnh giới cao, và khi ấy nó có thể duy trì sự quán tưởng.

Có thể tâm ta chưa từng quen thuộc với điều này trong quá khứ, nên khó mà có được lợi lạc tức khắc từ những kỹ thuật này. Nhưng khi ta đã quen thuộc, thì những phép quán như thân người khó được sẽ giống như tia nước lạnh rưới lên mặt, vấn đề sẽ tiêu tan.

Nếu sự hôn trầm vẫn không tan biến thì hãy sử dụng một biện pháp mạnh hơn, hãy quán tưởng tâm bạn như một ánh sáng trắng ở tim. Khi bạn đọc âm phat, tâm bạn thoát ra từ ở phía đỉnh đầu và đi sâu vào không gian. Hãy tưởng tâm bạn và không gian hòa lẫn. Làm vậy nhiều lần.

Nếu hôn trầm vẫn không tan, thì hãy chấm dứt thời thiền. Đám mù trong tâm đã khiến bạn phát sinh hôn trầm. Hãy dùng vài phương tiện để làm tiêu tan sự ảm đạm, hôn trầm, chếch choáng. Hãy ngồi ở chỗ mát mẻ, tản bộ trên một chỗ cao khoáng đạt, vảy nước lên mặt, v.v… Nếu tâm bạn trở nên sáng suốt trở lại, thì hãy tiếp tục thiền quán.

Sự trạo cử vi tế là khi bạn không mất dấu đề mục thiền. Như tâm lại phân tán. Điều này xảy ra là bởi tâm quá dán chặt. Hãy nới lỏng sự duy trì hình ảnh. Nếu làm vậy mà tâm vẫn phân tán, thì thế là bạn có một hình thức trạo cử thô. Nó phát sinh vì tâm trạng vui mừng, vậy không nên tăng sự vui thêm nữa. Quá vui là tai hại, như câu chuyện vua Tịnh Phạn không thể đắc quả Dự lưu vì ông quá mừng khi thấy Phật trở về. Trong tình trạng ấy, thì đừng gián đoạn thời thiền. Trái Tim Trung Đạo nói:

Hãy làm tâm hết trạo cử

Bằng cách nghĩ đến các pháp như vô thường.


Nghĩa là hãy quán những điều làm cho tâm buồn khổ, mệt mỏi, từ bỏ: đó là quán về chết, vô thường, những khổ trong sinh tử và các đọa xứ.

Nếu tâm vẫn trạo cử, thì hãy dùng một phương pháp mạnh hơn để diệt trừ trạo cử. Vì vọng tưởng càng tăng, bạn nên quán hơi thở khi thở vào thở ra. Khi thở, hãy nghĩ, “tôi đang thở ra” hoặc “tôi đang thở vào.” Và lại nghĩ, “đây là lần thứ nhất,” và tiếp tục đếm trong tâm số lần thở ra và vào. Lúc đầu bạn chỉ có thể làm được đến ba hay bốn chu kỳ; nhưng hãy bắt đầu đếm từ “một trở lại. Khi bạn có thể đếm tới hai mươi mốt mà tâm không bị phân tán, thế là đã đạt tiêu chuẩn về trạng thái tâm đầu tiên.

Có câu chuyện về hành giả vĩ đại Puentsog Gyatso ở Yerpa. Ngài có một cháu trai làm người hầu cho vị nhiếp chính Sangyae Gyatso. Người hầu này đã chịu chung một số phận ghê gớm cùng với vị nhiếp chính bị Lhazang Khan hãm hại. Bởi thế ngài không có tâm hồn nào để thiền quán. Ngài đếm hơi thở, và nhờ thế ngài có thể trở lại với pháp quán.

Nếu đếm hơi thở cũng không hết trạo cử, thì hãy ngưng thời thiền định. Sau đó bạn hãy thiền từng thời ngắn, trước khi thiền hãy lập nguyện kiên quyết. Nếu bạn kéo dài những thời thiền, thì đôi khi chỉ cần trông thấy chiếc tọa cụ cũng đủ làm cho bạn chóng mặt nôn mửa. Điều quan trọng nhất là hãy gián đoạn thời thiền đúng lúc: hãy dừng lại khi bạn còn thấy thời thiền định là một lạc thú. Ví dụ, khi hai người chia tay đúng lúc, thì họ sẽ hoan hỉ gặp nhau lại về sau. Khi hình ảnh quán còn rõ, bạn nên ngưng; nhưng nếu hình ảnh không rõ, thì bạn cũng phải ngưng. Nếu bạn định một lằn mức trong đó bạn còn chưa cảm thấy muốn ngồi thiền thêm nữa, thì bạn sẽ muốn thiền trở lại với tất cả nhiệt tình. Đấy là cách tốt nhất để thiền. Hãy làm như vậy và bạn sẽ cảm thấy sung sướng. Nhưng nếu bạn dừng lại trong khi hình ảnh vẫn còn không rõ rệt, mà sự thiếu rõ rệt vẫn không tiếp tục khi bạn thiền quán trở lại, thì bạn chỉ có nước ngủ gục nếu bạn cố kéo dài thêm nữa; và về sau sự thiếu sáng sủa sẽ tăng trưởng còn tệ hơn. Có câu chuyện như sau. Có vị hành giả vĩ đại tên Lozang Namgyael đang cho một giáo chỉ truyền khẩu về các tác phẩm của phái Kadampas. Ngài đọc: “Vào thời suy đồi này, thì đúng là lúc để điều phục dòng tâm thức của chính mình, chứ không phải tâm thức của người khác.” Ngài bổng khóc lên, và phải chấm dứt buổi giảng. Trong hai ngày kế tiếp ngài không thể giảng dạy gì được mỗi khi ngài đọc tới câu ấy.

{CT. Trạng thái xuống tinh thần này là do thiền quán quá độ. Để tránh điều này xảy ra đừng bao giờ làm gì quá trớn.}


Mặc dù hy vọng của ta có một đối tượng quán lưu lại trong tâm ta lâu dài, song hiện tại ta chỉ có thể quán tưởng ra hình ảnh, nhưng hình ảnh ấy không ở lâu. Bởi thế ta nên làm thời thiền quán ngắn lại. Chúng ta được bảo phải làm mười tám thời thiền mỗi ngày. Nếu sau một thời gian bạn vẫn không mất sự hôn trầm hay trạo cử thì phải làm những thời thiền rất ngắn, và ngồi thiền nhiều lần hơn. Những thời thiền này phải có chất lượng hảo hạng. Hãy làm thế, và hình ảnh sẽ tự động khởi sự ở lại trong tâm bạn. Chỉ khi điều này xảy đến bạn mới nên kéo dài thời thiền.