GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.1.2. Pháp thí
Hình thức bố thí này có thể là việc giảng dạy dù chỉ 4 câu kệ cho người nào muốn nghe, nếu ta nói bài kệ với ý nghĩ muốn đem lại lợi lạc cho người kia. Ngay cả khi bạn dạy cho học trò một bài đọc, đó cũng gọi là bố thí pháp, dù bạn không phải tu sĩ, không giảng nói từ một pháp tòa. Pháp thí tốt hơn bất cứ hình thức bố thí nào. Lại nữa sự học thuộc lòng hay nghiên cứu kinh điển cũng là một hành vi pháp thí nếu bạn tưởng tượng xung quanh mình có chư thiên hộ pháp và những hữu tình đang lắng nghe. Ngay cả giun dế v, v… khi nghe những lời pháp cũng để lại những dấu ấn trong dòng tâm thức chúng. Hãy nghĩ như vậy, ngay cả khi bạn đến đọc kinh tại nhà thí chủ.
Bạn phải rất cẩn thận khi đi vào xóm làng làm lễ. Đấng đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta giảng dạy các mật điển, phương pháp đạt giác ngộ trong một đời. Nếu bạn trao đổi điều này với tặng phẩm do tụng đọc, thế là bạn đã bán pháp để lấy của cải vật chất. Điều này cũng như lôi một ông vua từ trên ngai xuống đất và bắt ông ta chùi nhà. Bởi thế hãy làm những nghi lễ ấy với động lực chân chính.
Bố thí pháp không chỉ có nghĩa là giảng dạy có bài bản. Nó có thể là việc sử dụng buổi nói chuyện của bạn v.v… như một phương tiện gián tiếp hay trực tiếp để hướng dẫn người khác vào Phật pháp. Những người đã xuất gia nên thực hành việc bố thí pháp là chính yếu, nhưng cũng nên bố thí tài vật nếu không quá khó khăn. Kadampa Geshe Shawara nghĩ như sau khi ông muốn nói chuyện với một nhóm tu sĩ:
“Tôi sẽ không nói về những lợi lạc của sự bố thí, vì tôi đã nói với các vị những lỗi lầm của chấp thủ.”
a-1.1.3. Vô úy thí
Điều này có nghĩa là sự phóng thích các tù nhân hay cứu người chết đuối chẳng hạn. ngay cả việc cứu những chúng sinh như giun khỏi hơi nóng mùa hè hay cơn lạnh mùa đông cũng là một hình thức vô úy thí. Không cần phải đi thật xa mới làm được hạnh “bố thí sự không sợ” này, bạn có thể làm việc ấy con rận trên thân bạn. Cứu những côn trùng khỏi chết đuối chẳng hạn là việc làm rất dễ. Bạn chỉ cần đưa ra một ngón tay. Sự quán tưởng về bố thí được tìm thấy trong chương nói về luyện tâm cũng là một pháp thực hành bố thí.
Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh đề cập một cách căn bản để thế nào là bố thí ba la mật:
Nếu bố thí ba la mật
Là trừ khử nghèo nàn của tất cả chúng sinh,
Thì làm thế nào đức Phật, đấng che chở
Đã hoàn thành được nó, khi ngay bây giờ
Vẫn còn những chúng sinh đang thèm khát?
Nói cách khác bố thí không có thể chỉ là xua tan cơn nghèo của hữu tình; ngay cả Thanh văn, Duyên giác, A la hán cũng không có được ba la mật này, mặc dầu họ hoàn toàn không có tâm bỏn xẻn. Bố thí là một cái gì hơn thế nữa. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Người ta bảo bố thí ba la mật
Là tâm tưởng bố thí cho mọi chúng sinh
Tất cả những sở nghiệp của bạn.
Như vậy bố thí phải từ tự tâm.
Điều này có nghĩa rằng bố thí ba la mật phát sinh do sự quen thuộc với ý tưởng xả bỏ thân thể tài sản công đức và những nghiệp báo của mình cho người khác; và điều này cũng có nghĩa là cho những sự ấy từ đáy sâu tim bạn không một chút keo kiệt, trong khi nghĩ những lợi lạc của sự tịnh thí và những lỗi lầm của không xả bỏ.
Như vậy điểm quan trọng ở đây là bạn nên tăng trưởng những ý nghĩ về bố thí. Nếu người ăn xin đến xin ba tấm y của bạn, mà bạn nghĩ, “Ta có nên xả chúng hay không” đó là do bạn có thói quen bố thí. Cuối cùng bạn sẽ có thể hy sinh cả thân thể mình, sau khi luyện tâm về mức độ thấp hơn của sự bố thí. Khi bạn chưa đạt đến mức quen thuộc như thế, thì hãy luôn luôn tăng trưởng những ý niệm về bố thí.
Cách tăng trưởng những ý niệm ấy như sau. Hãy quán các pháp là vô thường. Khi chết, ta sẽ không đem theo được một chút tài sản. Những vật ta để lại sẽ bi hư nát v.v… Hãy đem chúng ban phát cho mọi người một cách chân thật từ đáy lòng; khi ấy bạn sẽ ít có cơ hội vi phạm những tiểu giới như tích trữ nhiều vật dụng. Đây là một ví dụ về hạnh bố thí.
Nhưng nghĩ tưởng chưa đủ, bạn phải thật sự xả bỏ càng nhiều càng tốt. Bạn nên rộng rãi đối với hành khất, nhưng không nên bố thí những vật kiếm được do tà mạn khi bạn không có gì khác để cho.
Tóm lại, ba la mật đầu tiên phải là sự tu tập chính của cư sĩ. Có câu:
Thí - giới - nhẫn là dành cho đa số
Đức Như Lai dạy ba pháp này cho cư sĩ.
Thực không nên cho thân thể của bạn chẳng hạn. Đừng bố thí thân xác trong khi bạn còn ở địa vị đang tập quen hạnh bố thí và đang tăng trưởng những ý tưởng về bố thí. Chỉ về sau mới nên xả bỏ thân thể khi chuyện ấy đã trở nên dễ dàng đối với bạn như chuyện cho một đĩa rau.
Có những vật không nên xả bỏ. Đừng thực hành bố thí với vài vật đặc biệt không được phép cho vì người nhận, vì thời gian, vì vật thí, v.v… Nếu người cho là xuất gia thì không nên đem cho ba y của mình v.v… Người xuất gia thì không được cúng dường thức ăn sau ngọ. Bạn không nên bố thí thức ăn bất tịnh như tỏi hành cho những người bà la môn vì họ giữ giới không ăn những thứ này. Bạn cũng không nên đem sách cho những người chỉ muốn tranh cãi, hoặc cho khí giới, độc dược cho những người có thể tự sát. Bạn không nên dạy mật điển cho một pháp khí không thích hợp hoặc bao che cho kẻ phạm tội nếu bạn chắc chắn y sẽ làm hại đến hữu tình hoặc cho nền giáo lý v.v…
Sẽ là một tà kiến nếu nghĩ rằng hạnh bố thí không có quả báo. Cũng sẽ ít lợi lạc nếu bạn chỉ giúp đỡ một hữu tình mà bỏ qua nhu cầu của những hữu tình khác. Hãy luyện mình không bị ô nhiễm vì những việc như trên, và như sau: bị tà kiến thúc đẩy giết súc vật để cúng tế, khinh thường kẻ khác, có hành vi cạnh tranh, tự thổi phồng mình, ham danh, cảm thấy hối hận, chủ bại, hoặc hành động có tính cách bè phái.
Shantideva nói đến 3 điều: bố thí, che chở, và làm cho thanh tịnh. Nói cách khác, bạn tăng trưởng những ý tưởng về bố thí thân mạng, nhưng khi chưa đến thời gian để làm việc ấy, thì bạn phải che chở thân mình khỏi những hoàn cảnh tác hại và giữ nó thanh tịnh bằng cách không sử dụng nó một cách bất thiện. Bản văn còn bàn đến một điều thứ tư là bạn nên hoàn tất những nguyên nhân đưa đến tái sinh như thế này, để trong những kiếp sau bạn sẽ có tám đức do quả dị thục, đó là sự tăng trưởng.
Lại còn có một nhóm bốn khác nữa: xả bỏ tài sản của bạn và tăng trưỏng ý tưởng về bố thí; che chở bản thân cho đến khi xứng đáng nhận của cúng dường của người khác; giữ mình trong sạch bằng cách không để ô nhiễm vì tà hạnh hay tội lỗi; tăng trưởng phạm vi bố thí để bạn có được vật để cho trong đời tái sinh.
Một nhóm khác là: xả bỏ thiện hành của bạn cho hữu tình một cách chân thành tự tâm khảm; che chở đức hạnh của bạn khỏi bị phá hủy vì giận dữ; sự trong sạch do không bị ô nhiễm vì hành động bất tịnh, nhưng mong được hạnh phúc trong đời này, hay chỉ muốn tránh tái sinh vào đọa xứ; tăng trưởng ý thức vui mừng của bạn v.v… Bản văn này bàn đến bốn nhóm bốn. Bạn phải tu tập theo cách đề ra trong bản văn này.