GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________


a-1.2. Những giai đoạn trong sự phát triển tà kiến

Sáu căn bản phiền não, quả thế tất cả phiền não, đều xuất phát từ sự chấp thủ bản ngã (xem Ngày Hai Mươi Hai) và thân kiến - quan điểm đồng hóa cái tôi với những vật khả hoại. Tất cả đau khổ nghiệp và vọng tưởng bởi thế đều xuất phát từ quan điểm cho rằng ngã là cái khả hoại - nếu bạn xác nhận rằng thân kiến và vô minh chỉ là một. Theo hệ thống không chấp nhận điều này, thì chính vô minh là yếu tố then chốt.

Theo hệ thống Trung quán Pràsangika, quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là căn nguyên: Có quan điểm thuộc tri thức (phân biệt ngã chấp - DG), có quan điểm thuộc bản năng. Lại có hai loại quan điểm thuộc bản năng: chấp thủ “tôi” và “của tôi.” Quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là chấp thủ cái “của tôi” (ngã sở). Khi ai khen bạn chẳng hạn, bạn nghĩ, “họ thật tốt đã khen tôi như vậy.” Cái “tôi” rất sống động và ăn sâu trong tâm thức; vì bạn có những ý nghĩ ấy, nên bạn cho đó là cái ngã, và có quan niệm cho rằng cái ngã ấy là một người sử dụng. Do quan niệm ấy, bạn bám lấy cái tôi, bạn đâm ra thương người nào giúp bạn, ghét người nào hại bạn, và có sự ngu si mê muội đối với những người xa lạ. Quyển Luận về những Pháp có giá trị nói:

Bạn biết người ta là “kẻ khác”

Vì bạn cho mình có một cái ngã;

Bạn chấp thủ vào tự và tha

Và trở thành thù nghịch.

Những điều này có tương quan;

Tất cả ác hành phát sinh từ đấy.


Thực Hành Trung Dạo của Pháp Xứng nói:

Mong sao tâm tôi được

Rằng mọi lỗi lầm đều phát xuất

Từ tà kiến cho rằng

Các uẩn và ngã là một…

Lúc đầu tôi bám lấy ngã, cái “tôi”

Và phát triển tham ái đối với các pháp…


Mặc dù gốc rễ của sáu căn bản phiền não sau rộng chính là vô minh, song người ta phát triển tham, sân, si vân vân do thân kiến (chấp ngã là cái khả hoại). Và do tham ái, v.v… mà người ta tích lũy nghiệp. Theo nghiệp này, người ta quay bánh xe sinh tử. Gốc rễ của sinh tử là vô minh, sự chấp thủ theo bản năng vào một cái ngã, và quan niệm cho rằng cái ngã là năm uẩn khả hoại. Muốn từ bỏ vĩnh viễn sự mê lầm, ta phải nỗ lực áp dụng thuốc chữa bệnh vô minh và châp ngã - đó là trí tuệ liễu tri lý vô ngã. Trí tuệ này bởi vậy giống như thuốc có thể phá trừ hàng trăm sự ác. Sách Bốn Trăm Bài Kệ nói: “Đấy là lý do tại sao tất cả phiền não được nhiếp phục nếu vô minh được nhiếp phục.” Kinh Thập Địa nói: “Trong thế gian này, tất cả tội lỗi đã phạm đều do chấp thủ có một bản ngã. Nếu không có sự chấp ngã rõ rệt, thì những tội lỗi ấy đã không xảy ra.”

Tuy nhiên, khi chưa hiểu thấu vô ngã, thì ta vẫn phải dùng phương tiện để đàn áp phiền não, để tạm thời xua tan chúng. Ta phải đề phòng nguyên nhân của phiền não (hay vọng tưởng).