DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 370
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nói cách khác, dù bạn tái sinh vào đâu trong cõi sinh tử, từ địa ngục A tỳ lên tận cõi trời Hữu đảnh, cũng đều như thể là ở trong một cái nhà bằng sắt nóng chảy có sáu tầng (lục đạo luân hồi - DG) - nghĩa là bạn tuyệt đối vẫn chưa thoát khổ. Có lần, vào một thời đói kém, trẻ con đòi bột lúa mạch nhưng người ta cho chúng nhiều của cải. Chúng nhất định không động tới và bảo “Ôi, đấy chỉ là của cải!”. Cũng thế, dù bạn tái sinh ở đâu, bản chất vẫn là khổ, chỉ có khác nhau ở vài phương diện, và mọi người đều có sung sướng và bất hạnh ngang nhau.

    Tóm lại bạn luôn luôn bị dằn vặt bởi ba loại khổ, bởi thế ba loại khổ này này được gọi là chiều dài và chiều rộng của đau khổ.

    Trong cõi luân hồi chúng ta khởi lên những ý nghĩ: “Tôi sung sướng”. Nhưng những ý tưởng này tự bản chất cũng là khổ. Những ý nghĩ cho rằng “Tôi dửng dưng” cũng là đau khổ tự bản chất. Khi chúng ta dội nước lạnh lên một vết thương, chúng ta tạm thời cảm thấy sung sướng của chúng ta cuối cùng cũng chuyển thành đau khổ, đó là nỗi khổ của sự biến đổi. Không những các lạc thọ bị ô nhiễm này mà tất cả những tâm và tâm sở tương ưng với chúng và bất cứ đối tượng ô nhiễm nào đưa đến những lạc thọ ấy - tất cả đều thuộc về nỗi khổ của sự biến dịch.

    Khi bạn mới bị bỏng lửa, bạn không thực sự bị hơi nóng hành hạ, mặc dù bản chất của vết bỏng là hơi nóng. Điều này chỉ tạm thời trong khi chưa có cảm giác gì nóng hay lạnh tiếp xúc với vết thương. Cũng vậy, những cảm thọ xả cùng với những tâm sở và đối tượng của nó, được liên kết với những hạt giống của khổ đau và vọng tưởng vị lai; chúng cũng liên kết với những bất thiện tâm sở luôn luôn có mặt. Bởi thế cảm thọ “xả” là sự khổ lan khắp các pháp hữu vi.

    Khi da bạn bị bỏng mà còn bị chạm vào nước sôi thì bạn cảm thấy một nỗi khổ rõ rệt, và đây là nỗi đau đớn tệ nhất. Cảm thọ “khổ” cũng như thế. Cảm giác đau khổ hoành hành thân và tâm - tâm vương tâm sở và đối tượng cảm thọ - là khổ khổ. Khi ta có cảm giác “tôi khổ” thì gọi đó là khổ khổ.

    Khái niệm của bạn về hạnh phúc chính nó cũng là nỗi khổ của sự biến dịch. Một dấu hiệu rằng đấy không phải là hạnh phúc mà chỉ là quan niệm của bạn về hạnh phúc, do bởi sự kiện nỗi khổ của bạn sẽ tăng sau một thời gian. Nỗi khổ của bạn lúc đầu chỉ là một giọt ở dưới ngưỡng cửa; về sau nó sẽ lên quá ngưỡng cửa, và thời gian xen vào giữa là khái niệm của bạn về hạnh phúc.

    Giả sử chúng ta đang ngồi bóng râm, sau một lúc ta sẽ cảm thấy lạnh, bởi thế ta dời ra dưới ánh nắng. Chúng ta dường như cảm thấy hạnh phúc trong một lát, nhưng đấy không phải là hạnh phúc. Khi chúng ta khổ sở, thì bất cứ gì chúng ta làm chỉ tăng thêm nỗi khổ của ta; cũng thế nếu sự đi ra ngoài nắng là hạnh phúc thì đáng lẽ ta sẽ không bao giờ cảm thấy khổ sở dù có ngồi bao lâu dưới nắng. Nhưng sự thật không phải vậy: chúng ta lại khổ sở, và chỉ một lát sau ta phải đi trở lại vào bóng râm. Nỗi khổ của chúng ta đã vượt lên trên lằn mức của nó mặc dù điều này trong thực tế là không rõ rệt.

    Điều tương tự cũng xảy đến khi bạn đi bộ: khi mệt bạn ngồi xuống và dường như cảm thấy sung sướng trong một lúc, những nỗi khổ phải đứng lâu chỉ có giảm xuống dưới mức chịu đựng, nỗi khổ của sự ngồi chưa xuất hiện rõ rệt mặc dù nó sẽ vượt lên trên lằn mức khi bạn ngồi đã chán. Rồi bạn nghĩ rằng, tôi muốn đi dạo. Khi bạn đứng lên, nỗi khổ của sự ngồi lại tụt xuống dưới lằn mức, còn nỗi khổ của sự đứng thì chưa lên đến lằn mức báo động v.v… Aryadeva nói:

    Bạn có thể thấy rằng dù hạnh phúc tăng lên bao nhiêu

    Nó cũng sẽ chấm dứt

    Cũng vậy đau khổ cũng tăng thêm

    Như không có cùng tận.


    Các uẩn bị ô nhiễm là một trường hợp của nỗi khổ lan khắp các pháp hữu vi: sự sinh ra các uẩn này khiến người ta trở thành một dụng cụ để chứa khổ. Bạn kinh quá những nỗi khổ nóng lạnh của địa ngục bởi vì bạn đã nhận các uẩn của một chúng sinh ở địa ngục; bạn kinh quá những nỗi khổ của một ngạ quỷ đói khát bởi vì bạn đã nhận các uẩn của một quỷ đói; khi bạn tạo cho mình thân thể của một con lừa chẳng hạn, thì bạn mang trên lưng một gánh nặng, bị quất bằng roi da, v.v… vì bạn đã tạo cho mình khí cụ để kinh quá những nỗi khổ này.

    Nói tóm lại, ngay cả nỗi khổ không thể chịu đựng khi bị gai đâm xảy ra cũng vì bạn bị nhiễm một bộ sậu các uẩn. Cũng như một người mang một gánh nặng trên lưng trần và không bao giờ hết khổ khi đặt gánh nặng xuống, bạn sẽ không bao giờ thoát khỏi bất cứ loại khổ nào cho đến khi bạn thoát khỏi gánh nặng của các uẩn bị ô nhiễm.

    Kyabje Pabongka Rinpoche kể chuyện Mục Kiền Liên đưa Shrìjàta đến bờ biển và chỉ cho ông xem những bộ xương, những thây người v.v… từ những đời quá khứ của mọi người, làm cho Shrìjàta bị kích động đến nỗi phát tâm từ bỏ.

    Sỡ dĩ gọi là “các uẩn bị nhiễm ô” vì ba lý do:

    Lửa phát xuất từ dăm bào thì gọi là “lửa dăm bào” các uẩn xuất phát từ vọng tưởng quá khứ - nghĩa là nguyên nhân chính gây ô nhiễm - nên hậu quả được đặt tên theo nguyên nhân.

    Một người lệ thuộc vào vua là “người của vua.” Vọng tưởng - nguyên nhân gây ô nhiễm - là một hậu quả được đặt tên theo nguyên nhân.

    Một người lệ thuộc vào vua gọi là “người của vua.” Vọng tưởng - nguyên nhân gây ô nhiễm - là một hậu quả của các uẩn bị ô nhiễm; vật được chống đỡ mang tên của cái chống đỡ.

    Một cây sản xuất ra thuốc hay một loại hoa được gọi là “cây thuốc” hay “cây hoa”. Bạn sẽ bị si mê nên bị ảnh hưởng bởi các uẩn này - vì vậy tên của hậu quả được gán cho nguyên nhân.

    Những uẩn này là nỗi khổ lan khắp tất cả pháp hữu vi, vì những ác pháp khổ và mê lầm luôn luôn đi liền với chúng. Bao lâu người ta còn có những uẩn này thì mỗi lần người ta không có cảm giác đau khổ người ta đều sẽ phải phát sinh nhiều đau khổ sau đó bằng những cách khác nhau. Bởi thế nỗi khổ của các pháp hữu vi (hành khổ - DG) lan khắp tất cả khổ, và là căn bản của hai loại khổ kia (khổ khổ và hoại khổ). Các uẩn tạo ra dụng cụ chứa khổ trong tái sinh này bởi vì chúng tạo ra dụng cụ chứa khổ trong tái sinh tương lai đưa đến đau khổ. Trong tất cả loại khổ, khổ về các uẩn là tệ nhất; sinh tử là một tình trạng vô phương cứu chữa ở trong đó người ta phải chịu gánh nặng các uẩn bị ô nhiễm do nghiệp và vọng tưởng. Điều này có nghĩa rằng ta phải tái sinh từ cõi trời Hữu Đảnh xuống cho đến địa ngục Vô Gián, và luân chuyển giữa hai cõi này trở đi trở lại nhiều lần. Cho nên thật đúng để nói rằng chính các uẩn bị ô nhiễm là sinh tử. Muốn chán ngấy sinh tử thì ta phải chán ngấy ô nhiễm. Khi người ta chưa chán ngấy cái khổ thấm khắp các pháp hữu vi thì ta chưa chán ngấy cái khổ thấm tháp các pháp hữu vi thì ta chưa thật tình chán ngấy sinh tử.

    (Kyabje Pabongka còn thảo luận về tất cả điều này một cách chi tiết.)

    Om Mani Padme Hum !

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN BỐN

    PHẠM VI TRUNG BÌNH


    NGÀY MƯỜI LĂM

    Kyabje Pabongka Rinpoche trích dẫn lời Àryadeva:

    Hỡi phàm phu! Làm sao ngươi lại không sợ
    Bị trói buộc vào đấy
    Không bao giờ cùng tận
    Trong biển khổ ngươi rớt vào.


    Sau khi kể một mẫu chuyện để giúp chúng tôi khởi động lực và nhắc lại những tiêu đề đã bàn, ngài ôn lại chương “Phát Sinh Những Ý Tưởng Cầu Giải Thoát.” Rồi ngài dạy cách tu tập.

    Như trong các nghi thức chuẩn bị, bạn phải nghĩ về nỗi khổ sinh tử trong khi quán tưởng bậc thầy ngồi trên đỉnh đầu. Giữa các thời khóa thiền, hay đọc những kinh dạy về những lỗi lầm của sinh tử v.v…

    Khi bạn thấy một điều gì thuộc về sinh tử - hạnh phúc, quyền lực, của cải v.v… mà bạn đâm ra chán mệt, nghĩ: “Đấy là những vật lừa bịp, đấy chỉ là đau khổ,” thế là bạn đã được kích động để phát sinh ý muốn từ bỏ.

    Bạn có thể bị kích động để từ bỏ những vật ấy khi bạn gặp vài vấn đề như bị phạt, bị giáng chức, v.v… nhưng đây chỉ là sự từ bỏ nông cạn, chỉ là một phần ảnh mờ nhạt của từ bỏ. Bao lâu bạn còn sinh ra trong cõi sinh tử, thì bạn vẫn hoàn toàn chưa thoát khổ; nếu bạn muốn vĩnh viễn thoát khổ, thì bạn phải cắt đứt dòng tương tục tái sinh. Bạn phát sinh một khát khao giải thoát khi bạn thấm mệt vì sinh tử và mong muốn đạt đến một vài bảo đảm - nghĩa là sự từ bỏ.

    Đức Tsongkapa vĩ đại nói:

    Sau khi thiền quán, khi bạn không còn khát khao

    Những huy hoàng của sinh tử dù trong chốc lát,

    Khi tư tưởng của bạn ngày đêm

    Đều luôn luôn cầu giải thoát,

    Thế là bạn đã phát sinh sự từ bỏ.


    Khi những người khác làm cho tôi pháp tòa đẹp đẽ, bày tỏ với tôi niềm cung kính, tôn trọng, v.v… tôi nghĩ: “Tất cả đấy đều là vô thường, tất cả đều là đau khổ,” và tôi tự nhiên bị kích động để từ bỏ. Tôi đã có được điều này một thời gian. Bất kể bạn thấy được sự huy hoàng bao nhiêu trong sinh tử, điều ấy cũng phải tăng thêm sự chán ngấy của bạn đối với sinh tử. Khi người ta chết, họ trải qua nỗi khổ tâm khi nhận ra rằn họ sẽ bị xa lìa tất cả tài sản, quyến thuộc trên đời này; nhưng đây chỉ là một ý thức về vô thường rất nông cạn, do những chuyện tầm htường của cuộc đời gợi nên.

    Điều quan trọng là phải sử dụng một vài phương pháp để khai triển trong dòng tâm thức của ta những tư tưởng thuần tịnh về động lực đưa đến từ bỏ. Điều chính yếu ta nên khát khao là Phật quả, muốn thành Phật quả chúng ta phải có tâm bồ đề, muốn có tâm bồ đề chúng ta trước hết phải có lòng thương xót: và muốn có lòng thương xót thì trước hết chúng ta phải nhận ra rằng tất cả hữu tình đều đã là cha mẹ của chúng ta. Chúng ta phải phát sinh sự từ bỏ bằng cách thiền quán về nỗi khổ sinh tử của chính mình, và rồi phát triển lòng xót thương bằng cách thiền quán về nỗi khổ của người khác. Như vậy điều chắc chắn là không phải Phạm Vi Lớn không có sự thiền quán về từ bỏ.

    Tuy nhiên, từ bỏ là đạo lộ chính yếu trong phần nói về Phạm Vi Trung Bình. Khi chúng ta đã phát triển sự từ bỏ trong dòng tâm thức, thì bất cứ công đức nào mà chúng ta làm đều trở thành một nguyên nhân cho sự giải thoát của ta. Bao lâu chúng ta chưa phát triển được một sự từ bỏ dù chỉ là gượng ép, thì bất cứ công đức nào chúng ta làm cũng chỉ quay thêm bánh xe sinh tử. Một ngoại lệ là công đức phát sinh tùy thuộcvào năng lực của một ruộng phước. Nếu chúng ta không xem trọng ba điều căn bản của đạo lộ, nếu chúng ta tảng lờ ba căn bản ấy, thì dù chúng ta có nỗ lực tu tập pháp gì sâu xa cách mấy - như thiền quán về các huyệt đạo, về những luồng khí lực, về chư thiên, tụng thần chú, v.v… - cũng sẽ không trở thành một phần của đạo lộ đưa đến giải thoát hay toàn trí. Đấy chỉ là một sự lãng phí năng lực. Bởi thế trước khi khởi sự tu tập, điều cốt yếu là ta phải nỗ lực hướng đến từ bỏ, bồ đề tâm và chánh kiến.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    2.2.2. XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT

    Có hai phần: (1) nghĩ về nguồn gốc đau khổ - những giai đoạn buộc chúng ta vào sinh tử; (2) thật sự xác định bản chất con đường đưa đến giải thoát:

    a. Nghĩ về nguồn gốc của đau khổ - các giai đoạn buộc chúng ta vào sinh tử.

    Có 3 tiêu đề phụ: (1) Vọng tưởng được triển khai cách nào; (2) Nghiệp được tích lũy cách nào. (3) Người ta bỏ thân thọ thân cách nào.

    a-1. Vọng tưởng phát triển cách nào

    Có 4 mục: (1) Nhận ra vọng tưởng; (2) Các giai đoạn trong sự phát triển vọng tưởng; (3) Nguyên nhân của vọng tưởng; (4) Lỗi lầm của vọng tưởng.

    Có hai cách để đưa vào Lam-rim đề mục “nghĩ về nguồn gốc của đau khổ - Những giai đoạn buộc người ta vào sinh tử.” Một cách là gán đề mục này vào một tiêu đề đầu tiên; cách kia - được sử dụng ở đây - theo những bài giảng truyền thống về Con Đường Nhanh và Con Đường Dễ và đặt tiêu đề ở dưới mcụ “Xác định bản chất của con đường đưa đến giải thoát.”

    Trước hết bạn phải nghĩ về những lỗi lầm chúng và riêng của sinh tử, bị kích động để từ bỏ nó, và phát sinh ước muốn giải thoát. Khi ấy bạn sẽ đặt câu hỏi:

    Gì là nguyên nhân của sinh tử? Sau khi tra tầm nguyên nhân và trở thành quen thuộc với nó, bạn sẽ mong muốn bé gây sự tương tục của nó.

    Nguồn gốc của khổ có hai phần: những vọng tưởng (phiền não) phát sinh ra khổ và những nghiệp phát sinh ra khổ. Bạn phải mang gánh nặng của các uẩn ô nhiễm, và đấy là do nghiệp. Nghiệp phát sinh vì vọng tưởng. Bạn đã tích lũy vô lượng nghiệp trong quá khứ, nhưng nếu không có những vọng tưởng là khát ái và chấp thủ làm một nguyên nhân phụ thuộc thì nghiệp không thể tự nó ném bạn vào một tái sinh mới: điều ấy cũng giống như hạt giống thiếu nước. Dù bạn không tích lũy nghiệp trong quá khứ, mà bạn có vọng tưởng, thì bạn cũng sẽ tích lũy nghiệp mới do những vọng tưởng ấy, và bởi thế bạn nhận một loạt những uẩn sinh tử trong tái sinh kế tiếp. Dharmakirti (Pháp Xứng) nói:

    Sự khát khao hiện hữu trong sinh tử

    Là điều độc nhất trong các khái cạnh của nghiệp

    Vì các nghiệp khác không thể kết thúc đẩy tái sinh

    Chúng chỉ là những yếu tố phụ thuộc…

    Nhưng nếu có khát ái,

    Ngài ta sẽ nhận thêm nghiệp mới.


    Như vậy căn bản của sự tái sinh vào sinh tử là vọng tưởng. Nói “vọng tưởng” nghĩa là cái gì bằng chính năng lực của nó, có nhiệm vụ phát sinh nỗi bất an tức khắc trong dòng tâm thức riêng ta, khiến nó không được chế ngự. Bởi thế chúng ta phải nhận ra được những vọng tưởng. Nếu không, thì cũng như không nhận ra được kẻ thù đã bắn mũi tên độc: Chúng ta sẽ không biết áp dụng phương pháp nào để chữa trị vọng tưởng ấy.

    Om Mani Padme Hum !

  4. The Following User Says Thank You to hoangtri For This Useful Post:

    uubatac (05-18-2020)

  5. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-1.1. Nhận ra vọng tưởng

    Có hai phần: (1) phiền não căn bản; (2) phiền não phụ thuộc.

    a-1.1.1. Phiền Não Căn Bản

    Thế Thân nói trong Kho Tàng Siêu Vật Lý:

    Sáu phiền não vi tế và rộng rãi

    Trong hiện hữu sinh tử là:

    Tham, sân, kiêu mạn

    Ngu si, tà kiến, nghi.

    Nghĩa là có 6 phiền não căn bản.

    (i) Tham

    Khi chúng ta thấy một vật hấp dẫn như đồ trang sức, thân thể, thức ăn uống… Chúng ta phát sinh những ý tưởng như không nuốn lìa những thứ ấy. Những vọng tưởng khác là giống như bụi trên áo, dễ tẩy trừ: nhưng tham ái có nghĩa là bám víu tập trung vào một cái gì, thì giống như dầu đã dính vào vải, rất khó tẩy. Khi chẳng hạn ta nhìn một vật, sờ nó, v.v… thì một góc của tâm tư ta khát khao bám víu đối tượng này. Khi ấy sự tham ái tỏa rộng và rất khó trừ.

    Dây trói tham ái và chấp thủ.

    Buộc bạn vào ngục tù sinh tử.

    Nói cách khác, tham ái là gốc rễ ngăn chúng ta không phái sinh động lực từ bỏ sinh tử và cũng là một trong những yếu tố chính trói buộc chúng ta vào sinh tử.

    Một cách để đối trị là thiền quán về khía cạnh bất tịnh của thân xác, v.v… Ở đây bạn triển khai thái độ cho rằng thân thể là bất tịnh: thi thể chảy máu, thi thể phân tán, thi thể phình trương và cuối cùng là bộ xương. Khi bạn bị rằng buộc với một người nào chẳng hạn, hãy quán sát người ấy chỉ là cái đẫy 6 thứ hôi thối. Khi bạn tham ăn thịt, hãy nghĩ về nguyên liệu chính của nó là hôi thối, về việc nó có ra do giết hại một mạng sống. Khi ấy sự tham ái và chấp thủ của bạn sẽ giảm bớt.

    (ii) Giận dữ.

    Giận dữ là tâm bị giao động mạnh khi ta thấy một cái gì khó chịu như thấy kẻ thù v.v… Đối tượng của giận dữ có thể là những hữu tình hay vật vô tri; khi chúng ta dính dáng tới chúng, tâm ta hoàn toàn bị bối rối, bị quấy rầy và ta muốn hại chúng.

    Sự giận dữ có hại lớn. Nó có thể tàn phá những công đức của bạn như thể bị đốt trong một đống lửa. Sự giận dữ làm cho người ta giết hại, đâm chém và đánh đập kẻ khác v.v…

    Ngay nay người ta sử dụng nhiều danh từ êm tai để chỉ sự giận dữ như “nóng tính,” v.v… Những người ấy có thể không xem sự giận dữ là tai hại. Nhưng có câu: “Không có tội lỗi nào bằng hận thù. Không có khổ hạnh nào bằng sự kiên nhẫn.” Hoặc: “Sự giận dữ là khí giới giết hại những tái sinh thù thắng của bạn.” Nói cách khác trong tất cả vọng tưởng, sự giận dữ có sức mạnh lớn nhất để phá hủy những công đức căn bản, nó là yếu tố chính ném bạn vào đọa xứ. Bởi thế giận dữ rất tai hại. Nó là yếu tố chính để ném bạn vào đọa xứ. Có nhiều cách để phá hủy công đức tùy thuộc vào đối tượng của giận dữ (xem Ngày Thứ Sáu). Bạn phải áp dụng những phương cách chữa trị giận dữ như nhẫn nhục v.v… Tôi sẽ nói thêm về giận dữ trong chương bàn về sáu ba la mật dưới đây.

    (iii) Kiêu mạn

    Kiêu mạn là quan niệm tự thổi phồng mình lên, nó có thể hiện rõ trong tương quan với một đối tượng tốt hoặc xấu: năng lực, tài sản, đức tính, gia đình, trí tuệ, đạo đức của bạn - ngay cả giọng nói êm tai hay thể lực của bạn. Khi bạn nhìn xuống từ một đỉnh núi cao, thì mọi sự ở dưới thấp đều như nhỏ lại. Khi bạn tự cho mình cao hơn thiên hạ, và có một cái nhìn tự thổi phồng mình, tức là bạn khoác cho mình một sắc thái cao vượt. Chỉ cần một đối tượng nhỏ nhặt cũng đủ cho bạn phát triển thói kiêu căng. Như những người phái Kadampas ngày xưa nói: Có phải hơi nước bốc lên nhiều hơn từ trên những đỉnh núi tuyết không? Hãy xem có chút hơi nào bốc lên từ tuyết dưới vực sâu! Họ cũng nói rằng đỉnh núi kiêu mạn sẽ không ngập lụt với nước những thiện đức. Nói khác đi, thật khó mà tu tập một đức tính nào nếu người ta có thói kiêu căng. Một bậc thầy có thể dạy Pháp cho một người kiêu căng, nhưng không ích gì.

    Cách chữa trị thói kiêu căng là nghĩ về một vài bảng kê mà bạn không hiểu, nhất là sự phân loại đầy đủ các yếu tố thuộc giác quan (CT. Một bảng liệt kê của Vazsubandhu (Thế Thân) trong Kho Tàng Siêu Vật Lý - Tức Abhidhrma, dịch âm là A tỳ đàm, dịch nghĩa là Thắng pháp - rất khó hiểu.) Thỉnh thoảng nên nghĩ đến từng vật trong và ngoài hiện hữu từ đỉnh đầu xuống đến gót chân bạn; bạn không biết được bao nhiêu cái, và điều ấy phải diệt bớt thói kiêu căng của bạn.

    (iv) Vô minh

    Thông thường vô minh hay bất giác (maripa Tạng ngữ) là ngược lại với “biết” (rig-pháp); hay “biết” và “không biết.” Vô minh là không biết, không thấy, không hiểu, không rõ ràng, vân vân. Ví dụ như không thấy lửa vì mắt nhắm, hoặc không trông thấy vật gì trong bóng tối đen. Vô minh cũng như mù - không thấy bản chất hay hình thái hiện hữu của một pháp: bốn chân lý, nhân quả, Ba ngôi báu, vân vân. Vô minh là gốc rễ của mọi phiền não (hay vọng tưởng).

    Có một hệ thống triết học cho rằng vô minh là một với thân kiến - tà kiến xem ngã đồng như những vật khả hoại (nghĩa là các uẩn v.v…). Hệ thống khác thì cho rằng vô minh và kiến chấp là hai cái khác nhau. Chẳng hạn, giả sử lỗi lầm cho sợi dây là con rắn, là như tà kiến xem ngã với các uẩn đồng nhau; thì vô minh sẽ là giống như cái nhân của sự lầm lẫn ấy: do cuộn dây nằm trong tối, do bóng tối mà người ta thiếu nhận thức sáng suốt về hình thái hiện hữu của sợi dây.

    Hệ thống đầu do Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và Pháp Xứng (Dharmakirti) cùng các vị khác chủ trương; hệ thống thứ hai do Vô Trước (Asanga) và đồ đệ chủ trương.

    (v) Nghi

    Đây là hoài nghi về Bốn chân lý, về Ba ngôi báu, về nhân quả, vân vân: không biết những chuyện ấy có hiện hữu không, có thật hay không. Nghi ngờ Ba ngôi báu làm cho ta không triển khai được thực chứng. Đức Dalai Lama đệ nhất nói:

    Hãy cứu con ra khỏi hoài nghi, con ma đáng sợ,

    Kẻ tàn ác bay lượn trong một bầu trời

    Đây là sự mù lòa hắc ám,

    Làm hại cho lòng khát khao xác tín của con

    Giết hết sự giải thoát của con.

    Khi bạn nghi ngờ luật nhân quả, thì điều ấy ngăn bạn tái sinh lên thượng giới; hoài nghi về bốn chân lý thì bạn do thể đạt giải thoát. Hoài nghi quả thực gây vô số tai hại. Nó được xem là một trong năm tà kiến (nghĩa là năm căn bản phiền não đầu).

    (vi) Kiến chấp sai lầm


    Có năm kiến chấp sai lầm:

    Om Mani Padme Hum !

  6. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    (1) Thân kiến: đồng hóa ngã với cái khả hoại

    Đây là quan niệm sai lầm về năm uẩn - có đặc tính là sẽ hoại diệt - và xem chúng chính là bản ngã, thuộc về ngã, tức là “tôi” và “của tôi.”

    Một ví dụ: Khi người ta làm bạn tổn thương, hại bạn, thì ý nghĩ “Tại sao chúng làm điều ấy cho ta?” hiện ra rõ rệt trong tâm bạn; bạn nắm giữ lấy “cái tôi” như thế nó hiện hữu cách ấy. Đấy là gốc rễ của tà nghiệp.

    Ngay những con kiến cũng có quan niệm này, đồng hóa cái ngã với những thứ khả hoại. Nếu bạn lấy một cọng cỏ mà châm chính vào mũi con kiến nó liên nghĩ ngay rằng “Tại sao chúng làm chuyện ấy với tôi?” rồi nó cong lên, giả chết. Sau dó, nó quay lại và bỏ chạy. Chính thân kiến - quan niệm chấp ngã là cái khả hoại - đã khiến nó làm việc ấy.

    (2) Biên kiến: những quan điểm cực đoan

    Những quan điểm này hướng về bất cứ vật gì được chấp thủ bởi ngã kiến trên đây; một quan điểm cực đoan xem những vật ấy là trường cửu, bền bỉ, độc lập, là thực có, vân vân (thường kiến - DG). Quan điểm cho rằng dòng tương tục là cái “tôi” sẽ bị gián đoạn vào lúc chết, cũng là một quan điểm cực đoan (đoạn kiến - DG).

    Mặc dù chính yếu những người không phải Phật tử mới giữ những quan điểm này, song chúng ta đôi khi cũng có cái nhìn sai lạc xem mọi sự thực có, hoặc nhìn sự vật bằng những cách khác nhau cũng không kém phần ngu ngốc.

    (3) Kiến thủ: xem năm uẩn là tối thượng

    Đây là một tà kiến phát xuất từ bất cứ một kiến chấp sai lầm nào kể trên, hoặc chấp ngã đoạn diệt, hoặc chấp các pháp thường còn, hoặc chấp ngã chấp pháp là phi hữu. Sự mê lầm này hướng về các uẩn của người giữ những tà kiến ấy, xem các uẩn ấy là tối thượng.

    (4) Giới cấm thủ: xem một thứ đạo đức hay cách hành xử nào đó là tối thượng

    Quan điểm này cho rằng sự đào luyện năm ngọn lửa, nhảy qua chĩa ba, đứng một chân, vân vân, là những con đường đưa đến giải thoát. Nó cũng xem một vài lối hành xử là tối thượng. Như ngồi trên một tấm da thú. Một vài người nhận ra nhờ thần thông rằng trong tiền kiếp họ làm chó, và điều này làm họ mù quáng: họ muốn nhận một thân người trong tái sinh kế tiếp, nên họ (lầm tưởng điều này là nhân) bắt chước những hành vi của chó như sủa, v.v… Họ xem điều này là tối thượng, nên làm cho thân thể và lời nói của họ thực hành những tà hạnh.

    (5) Tà kiến

    Tà kiến gồm phần lớn là quan niệm cho rằng bốn chân lý, Ba ngôi báu, nhân quả, v.v…không hiện hữu.

    Hai điều cần được xem xét ở đây: sự xác nhận lố bịch - một cái phi hữu mà cho là thực có - và sự phủ nhận - cái sự tuyệt đối không hiện hữu. Vài người không phải Phật tử cho rằng thế giới do thần Vi nữ sáng tạo, đã nhập thể mười lần vào thế gian; phái Số luận phân mọi cái khả tri thành ra 25 loại và cho rằng nói chung, 25 nguyên lý ấy tạo ra thế giới; những người khác lại khẳng định thế giới do Tự Tại Thiên tạo dựng, vân vân. Những người này tuyên bố có một cái gì được tạo ra trong khi thực sự là không có - bởi thế đấy là những sự chấp có. Tuy nhiên tà kiến là những sự phủ nhận (chấp không).

    Kể năm loại tà kiến như là một, cọng thêm năm cái chấp không, thành sáu kiến chấp làm nên những mê lầm căn bản, vi tế và rộng rãi.

    Nếu bạn là một người thường, thì nên áp dụng thuốc chữa kiến chấp Àryadeva nói: “Cũng như các giác quan trong cơ thể, vô minh si ám cũng cư trú trong tất cả những kiến chấp ấy.” Nghĩa là, vô minh thấm khắp và làm nhân cho tất cả những phiền não khác. Tuy vậy, vô minh si ám rất khó nhận diện, bởi thế tôi sẽ bàn về nó dưới đây.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #6
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-1.2. Những giai đoạn trong sự phát triển tà kiến

    Sáu căn bản phiền não, quả thế tất cả phiền não, đều xuất phát từ sự chấp thủ bản ngã (xem Ngày Hai Mươi Hai) và thân kiến - quan điểm đồng hóa cái tôi với những vật khả hoại. Tất cả đau khổ nghiệp và vọng tưởng bởi thế đều xuất phát từ quan điểm cho rằng ngã là cái khả hoại - nếu bạn xác nhận rằng thân kiến và vô minh chỉ là một. Theo hệ thống không chấp nhận điều này, thì chính vô minh là yếu tố then chốt.

    Theo hệ thống Trung quán Pràsangika, quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là căn nguyên: Có quan điểm thuộc tri thức (phân biệt ngã chấp - DG), có quan điểm thuộc bản năng. Lại có hai loại quan điểm thuộc bản năng: chấp thủ “tôi” và “của tôi.” Quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là chấp thủ cái “của tôi” (ngã sở). Khi ai khen bạn chẳng hạn, bạn nghĩ, “họ thật tốt đã khen tôi như vậy.” Cái “tôi” rất sống động và ăn sâu trong tâm thức; vì bạn có những ý nghĩ ấy, nên bạn cho đó là cái ngã, và có quan niệm cho rằng cái ngã ấy là một người sử dụng. Do quan niệm ấy, bạn bám lấy cái tôi, bạn đâm ra thương người nào giúp bạn, ghét người nào hại bạn, và có sự ngu si mê muội đối với những người xa lạ. Quyển Luận về những Pháp có giá trị nói:

    Bạn biết người ta là “kẻ khác”

    Vì bạn cho mình có một cái ngã;

    Bạn chấp thủ vào tự và tha

    Và trở thành thù nghịch.

    Những điều này có tương quan;

    Tất cả ác hành phát sinh từ đấy.


    Thực Hành Trung Dạo của Pháp Xứng nói:

    Mong sao tâm tôi được

    Rằng mọi lỗi lầm đều phát xuất

    Từ tà kiến cho rằng

    Các uẩn và ngã là một…

    Lúc đầu tôi bám lấy ngã, cái “tôi”

    Và phát triển tham ái đối với các pháp…


    Mặc dù gốc rễ của sáu căn bản phiền não sau rộng chính là vô minh, song người ta phát triển tham, sân, si vân vân do thân kiến (chấp ngã là cái khả hoại). Và do tham ái, v.v… mà người ta tích lũy nghiệp. Theo nghiệp này, người ta quay bánh xe sinh tử. Gốc rễ của sinh tử là vô minh, sự chấp thủ theo bản năng vào một cái ngã, và quan niệm cho rằng cái ngã là năm uẩn khả hoại. Muốn từ bỏ vĩnh viễn sự mê lầm, ta phải nỗ lực áp dụng thuốc chữa bệnh vô minh và châp ngã - đó là trí tuệ liễu tri lý vô ngã. Trí tuệ này bởi vậy giống như thuốc có thể phá trừ hàng trăm sự ác. Sách Bốn Trăm Bài Kệ nói: “Đấy là lý do tại sao tất cả phiền não được nhiếp phục nếu vô minh được nhiếp phục.” Kinh Thập Địa nói: “Trong thế gian này, tất cả tội lỗi đã phạm đều do chấp thủ có một bản ngã. Nếu không có sự chấp ngã rõ rệt, thì những tội lỗi ấy đã không xảy ra.”

    Tuy nhiên, khi chưa hiểu thấu vô ngã, thì ta vẫn phải dùng phương tiện để đàn áp phiền não, để tạm thời xua tan chúng. Ta phải đề phòng nguyên nhân của phiền não (hay vọng tưởng).

    Om Mani Padme Hum !

  8. #7
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-1.3. Nguyên nhân của vọng tưởng

    Có sáu nguyên nhân.

    a-1.3.1. Nguyên nhân thứ nhất: nền tảng của vọng


    Nền tảng này gồm những hạt giống hay tùy miên (sự tiềm tàng). Như khi ta không thể nhổ tận gốc mầm bệnh, thì ngay cả một miếng ăn nhỏ cũng đủ gây bệnh, bởi thế khi gặp dịp là ta sẵn sàng phát triển vọng tưởng trong dòng tâm thức ta vì ta có sẵn những hạt giống của vọng tưởng. Hạt giống ấy là nền tảng hay bản năng cho vọng tưởng phát sinh.

    a-1.3.2. Nguyên nhân thứ hai: đối tượng của vọng

    Đấy có thể là một cái gì dễ chịu, khó chịu, hay bất cứ gì khi gặp những vật ấy, vì ta chưa từ bỏ hạt giống mê vọng, nên như Thế Thân nói:

    Không từ bỏ vọng tưởng

    Vi tế và rộng rãi:

    Ở gần đối tượng của vọng

    Và có những tư duy không thực tế,

    Đấy là trọn bộ nguyên nhân

    Cho những mê vọng xảy ra.


    Nói cách khác, ta phải tách rời mình khỏi những đối tượng của vọng, nếu không sẽ phát sinh vọng tưởng. Những người xuất gia nên tránh vọng bằng cách sống trong tu viện, am thất, v.v… Điều ấy thật tốt cho những người sơ cơ chúng ta, ta sẽ không phát sinh vọng tưởng nếu ta không trông thấy những đối tượng làm phát sinh vọng tưởng nếu ta không trông thấy những đối tượng trong một thời gian. Bởi thế ta nên tránh chúng càng nhiều càng tốt. Trong vài bản văn luyện tâm, ta đọc:

    Người còn phải đối trị vọng tưởng

    Thì cốt yếu nên tránh những đối tượng xấu xa.


    Vô Trước nói:

    Hãy từ bỏ những đối tượng xấu

    Thì vọng tưởng dần bị che khuất

    Vì bạn không xao lãng

    Nên những thiện hành dần tăng.

    Tâm bạn được thanh lọc

    Bạn sẽ có được niềm tin vào Pháp.

    Đào luyện sự độc cư

    Là việc của người con Phật.


    Nói cách khác, cốt yếu là phải từ bỏ những đối tượng làm phát sinh vọng tưởng, và cư trú trong một nơi nào thuận lợi cho việc này.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •