DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 370
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI MỘT
    __________________________________________________ ______________________________________


    b-3.2. Những nỗi khổ riêng của vài loại súc sinh.

    Có hai mục: (1) những đau khổ của súc sinh sống trong những môi trường chật hẹp; (2) nỗi khổ của súc sinh sống tản mác.

    b-3.3. Nghĩ vè nỗi khổ của con vật sống phân tán.

    Đây là những con vật trong cõi người, và chúng có vô lượng cách chịu khổ.

    Chúng ta có tất cả những nguyên nhân đầy đủ có thể tái sinh làm những loài ấy; những nguyên nhân ấy vừa mạnh lại vừa nhiều. Nguyên nhân mạnh nhất là bất kính đối với Pháp và người giảng pháp, những người độc thân gọi nhau là những con thú. Điều này được chứng mình bằng những câu chuyện về Manavagaura (xem Ngày Thứ Tư). Một lần tại Ấn Độ có một người làm thí chủ cho tăng chúng an cư mùa mưa nhưng chỉ cho toàn thực phẩm xấu. Về sau y tái sinh làm một con dòi ở trong đống bùn hôi có đầu như thầy tu, và chịu nhiều đau khổ. Một lần có người bảo một tỳ kheo nào đó giống như con khỉ; do lời nói ấy y phải tái sinh 500 lần làm khỉ. Những chuyện này rút từ trong kinh.

    Những tội lỗi lớn lao đưa ta tái sinh xuống địa ngục; tội trung bình làm quỷ đói; và tội nhẹ thì làm súc sinh. Nặng hay nhẹ tùy thuộc vào ý định, vào ruộng phước hoặc vào sự vật gây tội. Khi nói “tội nặng “ thì không có nghĩa là những tội nặng rõ rệt như giết một con người. Chúng ta sẽ biến mất vào các đọa xứ chỉ vì cái nghiệp nói đùa hay xúc phạm người khác. Chúng ta chỉ bảo đảm không tái sinh vào đọa xứ khi đã đạt đến gia đoạn “nhẫn” trong đạo lộ chuẩn bị. Kho Tàng Siêu Vật Lý nói:

    Ai sẽ che chở tôi

    Khỏi những kinh hoàng này

    Với đôi mắt trợn dọc

    Tới dò khắp bốn hướng

    Tìm một nơi trú ẩn

    Nhưng khi không tìm được

    Nơi nào trong bốn phương

    Tôi hoàn toàn tuyệt vọng.

    Nếu không nơi trú ẩn

    Tôi sẽ làm gì đây?


    Nếu quan sát kỹ bạn sẽ thấy cõi súc sinh là tốt nhất trong ba đọa xứ; nhưng súc sinh không thể nào tụng dù chỉ một lần câu om mani padme hum. Chúng rất dễ có những si mê và ba độc tố nên dễ quy tụ ác nghiệp mới và luân hồi từ đọa xứ này đến đọa xứ thấp hơn. Hành Bồ Tát Hạnh cũng nói:

    Nếu tôi không làm việc lành

    Trong khi tôi may mắn còn có thể làm được,

    Thì tôi sẽ làm gì khi hoàn toàn bị mù mịt

    Vì những đau khổ ở đọa xứ?

    Nếu tôi không làm phước hành

    Mà lại tích lũy tội lỗi và ác hành

    Thì trong hàng tỷ kiếp

    Tôi sẽ không nghe đến danh từ “thượng giới.”


    Nói cách khác, nếu ta không nỗ lực đạt đến một chỗ nương tựa hay phương pháp thoát khỏi đọa xứ trong những đời sau trước khi chết, thì sẽ quá muộn khi ta thật sự bị rơi vào đó.

    Giữa chúng ta và 3 đọa xứ chỉ cách nhau cái sự kiện rằng chúng ta chưa ngưng thở. Trong một thời gian ngắn - cuối năm hoặc vài năm sau - một vài người trong chúng ta có thể tái sinh vào địa ngục và thân thể chúng ta khi ấy không khác gì lửa địa ngục. Một số khác có thể tái sinh làm ngạ quỷ không tìm được một giọt nước uống, một chút thức ăn. Một số khác sẽ tái sinh làm súc sinh mang lông đội sừng. Chúng ta không thể chắc chắn mình sẽ không rơi vào những tái sinh ấy; điều ấy cũng dễ dàng như tỉnh dậy từ một giấc chiêm bao.

    Khi nhớ đến những điều này chúng ta không nên nghĩ như đấy là những câu chuyện xảy ra ở rất xa hay chỉ là những việc gọi tò mò. Điều cần thiết là phải có tuệ quán đi sâu vào những gì sẽ xảy ra nếu bị tái sinh vào đọa xứ và chắn chắn rằng sau khi chết chúng ta có thể đọa vào đấy. Giả sử chúng ta xem cảnh nhiều tội nhân đang bị trừng phạt do lệnh của vua; và bỗng chốc ta cũng bị tóm bắt dẫn ra khỏi đám đông khán giả, và phải chịu những hình phạt như các phạm nhân trước mắt. Cũng vậy, bây giờ chúng ta thấy rằng rất nhiều hữu tình đang chịu đựng đau khổ trong một vài nơi gọi là “đọa xứ,” và chúng ta vẫn tiếp tục nhìn xem với vẻ tò mò. Khi thấy một người đồ tể dẫn đàn cừu đến nơi làm thịt, hãy tưởng tượng nỗi đau đớn sợ hãi mà chúng ta sẽ kinh quá nếu thình lình rơi vào tình cảnh ấy, hay hóa thành một con cừu đang bị đồ tể dẫn đi và thật sự càm thấy gươm của y đang cắt vào giữa những xương sườn mình. Chúng ta phải có được thứ tuệ quán như vậy. Đức Phật, đấng Thế Tôn đã tiên đoán như sau:

    “Trong tương lai những chúng sinh sẽ đi xuống các đọa xứ nhiều như cát chảy xuống từ một bao cát lật úp.”

    Chúng ta giống như một tử tội bị hành quyết bằng cách ném xuống vực thẳm đang nghỉ bên lề vực. Chúng ta không ý thức được điều này, nên thay vì tu tập để chứng quả A la hán, chúng ta lại cứ thản nhiên không lo sợ: đây là triệu chứng ta sẽ đi vào các đọa xứ.

    Hãy xem có phải bạn tưởng rằng mình sẽ giống như chút ít cát dính lại trong những đường may của đãy đựng cát đã lật úp hay không.

    Nếu sự tu thiền của chúng ta quả đem lại tuệ quán sâu xa vào nỗi khổ sinh vào các đọa xứ, thì chúng ta sẽ phát khởi tâm từ bỏ. Bởi thế đôi khi thiền quán về những nỗi khổ của đọa xứ còn tốt hơn là thiền quán về những vị thần bảo hộ.

    Mức độ chánh niệm cần thiết về những nỗi khổ của đọa xứ là như sau. Hai con trai của chị ngài A nan được đặt dưới sự dạy dỗ của Mục Kiền Liên. Các cậu không chịu học; nên Mục Kiền Liên bèn hiện cho xem cảnh địa ngục và từ dấy họ tự nhiên phát khởi tâm từ bỏ.

    (Kyabje Pabongka Rinpoche ông lại tất cả những gì đã trình bày, và giảng dạy vắn tắt cách tu tập.)

    Om Mani Padme Hum !

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN BA

    NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ


    NGÀY MƯỜI HAI

    (Kyabje Pabongka Rinpoche kể câu chuyện ngắn để khởi động lực cho chúng tôi, trích dẫn từ tác phẩm của đức Tsongkapa)

    Tái sinh làm thân người
    Là điều rất khó được.
    Đời này không kéo dài.
    Tâm thường quán như vậy
    Và lơ chuyện thế gian…


    (Sau khi nhắc lại những tiêu đề đã giảng, ngài ôn lại tài liệu về nỗi khổ ở các đọa xứ, một phần của chương “Nghĩ Về Loại Vui Hay Khổ Bạn Sẽ Gặp Trong Tái Sinh Sau Ở Một Trong Hai Nẻo Luân Hồi.”)

    Những điều ấy làm cho bạn muốn rút tỉa tinh hoa của đời tái sinh may mắn này. Khi nghĩ đến những thống khổ ở đọa xứ, bạn sẽ kinh hoàng và mong tìm chốn nương thân, cũng như tìm cách nào để được sung sướng trong đời sau. Chỗ nương mà bạn tìm được để che chở bạn khỏi đọa, chính là bậc thầy và Tam bảo. Cách để được sung sướng đời sau là phát khởi niềm tin và luật nhân quả - lòng tin này là gốc rễ của mọi sức khỏe và hạnh phúc - và thay đổi lối hành xử cho phù hợp với luật ấy.

    2.1.2. DẠY CÁCH ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC ĐỜI SAU

    Có hai tiêu đề phụ: (1) quy y, cánh cửa thiêng để đi vào nền giáo lý; (2) phát khởi niềm tin vào luật nhân quả - gốc rễ của mọi sức khỏe và hạnh phúc.

    a. Quy y: cánh cửa thiêng để đi vào giáo lý

    Có năm đoạn: (1) nguyên nhân sự quy y; (2) nương tựa vào những gì; (3) tiêu chuẩn của chỗ nương đầy đủ; (4) lợi lạc của quy y; (5) lời khuyên sau khi đã quy y.

    a-1. Nguyên nhân quy y

    Sự quy y chính đáng hay không là do trong dòng tâm thức người ta có nguyên nhân chính đáng để quy y hay không. Những nguyên nhân ấy được bàn trong tác phẩm của Lozang Choekyi Gyaeltsaen nhan đề Tiếng Cười Du Dương Của Lozang Dragpa - Trả Lời Cho Những Câu Hỏi Về Lòng Vị Tha Tinh Khiết Nhất:

    Bản chất chân thực của quy y:

    Quy y vì ta rất sợ chính ta

    Và vì ta biết

    Tam bảo có năng lực che chở

    Đây là điều mà ta gọi Đấng Toàn Tri.

    Nói cách khác ta cần cả hai nguyên nhân: vì sợ khổ sinh tử và các đọa xứ; và niềm tin rằng, một khi ta đã đặt niềm tin vào Tam Bảo, thì Tam Bảo sẽ có năng lực che chở cho ta thoát khỏi những nỗi kinh hoàng ấy. Nếu chúng ta không có hai nguyên nhân ấy, thì không quy y được một cách thuần túy. Nếu chúng ta không sợ khổ thì ta không nghĩ đến chuyện tìm một chỗ nương. Nếu chúng ta không tin tưởng vào cái điều mà chúng ta đã tìm đến để nương cậy (quy y) thì ta không nhớ đến sự tin cậy của ta vào chỗ nương ấy - ta chỉ có thể nhắc lại bằng lời nói suông mà tim ta không đặt hết tin tưởng vào đấy. Mỗi phạm vi trong ba phạm vi đều chứa lý do trước nhất của nó, trong sự quy y. Với Phạm Vi Nhỏ thì đó là: Sợ nỗi khổ luân hồi trong sinh tử. Với Phạm Vi Lớn là: lòng từ bi bao la làm cho ta không thể chịu nổi thấy kẻ khác đau khổ trong sinh tử. Trong phần đặc biệt này của Lam-rim, lý do quy y là nỗi sợ hãi các đọa xứ.

    a-2. Nương cậy vào cái gì.

    Có hai phần: (1) nhận ra những chỗ đáng nương cậy; (2) lý do tại sao đấy là những nơi đáng nương cậy.

    a-2.1. Nhận ra những chỗ đáng nương cậy

    Tác phẩm Một Trăm Năm Mươi Bài Tụng nói:

    Hãy nương tựa vào một người

    Tuyệt đối không lầm lỗi,

    Không mù quáng, và nơi người ấy

    Có đủ mọi khía cạnh của thiện đức.

    Khi bạn nghĩ về điều này.

    Hãy tôn trọng người nào ca tụng Ngài

    Và an ttú trong giáo lý của Ngài giảng dạy.


    Nói cách khác, khi bạn nghĩ làm sao để phân biệt cái gì đáng nương cậy cái gì không, thì bạn sẽ muốn nương cậy Phật, người giảng dạy Pháp, nương cậy Pháp ấy, và nương cậy Tăng, những người sống theo Pháp. Phàm phu tìm chỗ nương là những sinh vật thế gian, như quỷ thần, rồng v.v… Những người không Phật tử tìm chỗ nương là Phạm Vương, Đế Thích v.v… nhưng chính những sinh vật này cũng đang ở trong sinh tử, bởi thế không phải là chỗ quy y xứng đáng.

    Như vậy ai là chỗ quy y xứng đáng? Tác phẩm Bảy mươi Bài Kệ Quy Y nói:

    Phật, Pháp và Tăng

    Là ba chỗ quy y cho người cầu giải thoát.

    Nghĩa là, chỗ nương cậy duy nhất là Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu ta không nhận ra cho đúng, thì ta sẽ không quy y một cách thuần tịnh. Chúng ta không có tinh thần phê phán, bởi thế tự hào là người biết Đại thừa, mà khi gặp chuyện rắc rối,hay có việc quan trọng, ta lại đi tìm trú ẩn trong những chỗ nương thế tục, như quỷ thần, thổ thần, v.v… Chúng ta làm lễ tịnh hóa bằng khói hoặc đeo bùa, hoặc chạy bổ đến bất cứ một vị thần linh nào. Mọi hoạt động bên ngoài này chứng tỏ tình trạng nội tâm ta. Phật tử thì phải tin tưởng Tam Bảo. Chúng ta có thể đã thực thụ làm người xuất gia, được một tu viện thâu nhận, thế mà ta không đủ tư cách làm Phật tử chứ đừng nói làm một người hiểu biết Đại thừa.

    Trời rồng, v.v…, không có ba đức là toàn tri, tình yêu và năng lực. Những chúng sinh này cón không thể biết mình lúc nào chết. Thông thường chúng được liệt vào hạn súc sinh hay ngạ quỷ, sự tái sinh của chúng thấp hơn người. Không có cách nào tệ hơn là tìm cách nương tựa vào chúng. Hoàn toàn không thể che chở ta thoát khỏi sinh tử và nỗi khổ ở đọa xứ, hay giúp đỡ tạm thời cho chúng ta, chúng còn làm hại chúng ta là đằng khác. Có câu chuyện chứng minh như sau. Một người bị bướu cổ đi đến mọt nơi có quỷ ăn thịt sống thường lai vãng. Những quỷ này có nợ chúng sinh khác một ít thịt, nên chúng lấy cục bướu của người này. Một người khác có bướu cũng đến cầu xin quy y với hy vọng khỏi bướu, nhưng những quỷ này không phá hủy cục bướu mà lại làm cho lớn hơn. Cũng tương tự như vậy, quỷ thần ở thế gian đôi khi giúp người nhưng cũng lắm lúc hại người; nên không bao giờ có thể tin cậy được.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    Những người không Phật tử thường quy y cả Đế Thiên Đế Thích, thần Shiva, Thần Ca lâu la, Khẩn na la, v.v…; nhưng thần này có khá hơn nhưng cũng chưa giải thoát khỏi sinh tử và đọa xứ nên không thể che chở người khác. Nhưng đức Phật bậc thầy về giáo lý thì không như vậy. Tác phẩm Ca Tụng Những Người Đáng Ca Tụng nói:

    Ngài tuyên bố: “Ta là bạn

    Của những người không ai che chở”.

    Lòng bi mẫn bao la của Ngài bao trùm tất cả chúng sinh

    Hỡi đấng đạo sư, Ngài có lòng thương rộng lớn,

    Ngài có từ bi và Ngài hành động do từ bi thúc đẩy.

    Ngài tinh tấn không lười biếng

    Còn ai có thể được như Ngài?

    Ngài là đấng che chở khắp tất cả hữu tình;

    Ngài là quyến thuộc từ bi đối với tất cả.

    Trong một chương khác tôi sẽ bàn đến từng đức tính của Phật. Theo chương ấy Ngài có 3 đức tính vĩ đại là toàn trí, từ bi và năng lực thần thông. Những những quỷ thần, ma vương, không có dù chỉ một phần những đức tính này, mà tất cả những đức tính của những chỗ quy y trên thế gian như trời rồng v.v…, cộng lại cũng không thể sánh bằng những đức của một vị Dự Lưu thuộc Thanh Văn đạo.

    Đức Phật là chỗ nương tuyệt đỉnh bởi vì Ngài đã đạt được hai thứ lợi lạc là tự lợi và lợi tha đến chỗ toàn hảo. Đấng đạo sư chúng ta đã trừ khử được tất cả lỗi lầm và có được tất cả đức tính.

    Nói một cách giản dị thì Phật bảo tuyệt đối là hai pháp thân (thân chân lý); còn Phật bảo là tương đối là hai thân vật lý (tức là báo thân và hóa thân).

    Pháp bảo là như sau. Pháp bảo tuyệt đối là bất cứ gì thuộc về diệt đế và đạo đế - đây là hai sự thật có khả năng tịnh hóa (ngược lại với hai sự thật khổ và tập) trong dòng tâm thức của những bậc thánh. Một phần của diệt đế có nghĩa là thoát khỏi hay chấm dứt một vài chướng ngại đặc biệt, để cho một đạo lộ đặc biệt nào đó không bị bế tắc. Đạo đế là phương tiện của các bậc thánh để hoàn thành những diệt đế này và những thực chứng trong dòng tâm thức của họ. Những người chưa học những tác phẩm cổ điển và suy nghĩ ở tầng thấp kém có thể xem ba phạm vi của Lam-rim cũng gần như pháp bảo mật tuyệt đối.

    Thông thường mười hai thành phần của kinh điển được xem là Pháp Bảo.

    Tăng bảo là như sau: bảo châu tối thượng về tăng là những bậc thánh có bất cứ giải thoát nào trong 8 giải thoát.

    Một nhóm gồm 4 phàm phu đã thọ và giữ cụ túc giới được xem là tăng bảo. Nếu chúng ta giúp đỡ hay làm hại những người này ta sẽ tạo ra những quả báo thuộc phước hành hoặc phi phước hành đối với tăng.

    Ta không cần cả ba chỗ nương này để được che chở khỏi vài loại hiểm nguy; một trong ba ngôi báu này cũng đủ che chở. Có lần một người đàn ông ở Dokham khấn cầu đức Quan Âm khi đang bị một con cọp lôi đi. Con cọp liền thả y ra và y được giải thoát khỏi hiểm nạn.

    Sau khi Phú Lâu Na chứng quả A la hán có một vài người bà con và thương gia đi biển để tìm trầm, nhưng chiếc thuyền của họ khởi sự tan rã. Những người bà con cầu khẩn đức A la hán Phú Lâu Na và thoát khỏi chết chìm.

    Vua của loài rồng phun một cơn mưa khí giới trên vua Ba Tư Nặc, Mục Kiền Liên liền hóa chúng thành những mưa hoa.

    Tuy nhiên cả ba ngôi báu đều cần thiết để che chở chúng ta hoàn toàn thoát khỏi sinh tử và các đọa xứ. Muốn chữa một con bệnh khỏi chứng bệnh trầm trọng thì cần phải có 3 điều: y sĩ, thuốc và người điều dưỡng. Cũng thế muốn thoát khỏi cơn bệnh khổ sinh tử và các đọa xứ, mối nguy của Niết bàn tiểu thừa, hay thoát khỏi luân hồi, người ta đương nhiên phải cần tất cả: Đức Phật bậc thầy chỉ dạy con đường đưa đến giải thoát, như một y sĩ; Pháp con đường giải thoát thuộc ba phạm vi giống như thuốc, Tăng những người thực hành pháp giống như người điều dưỡng. Vậy ba điều này là những nơi để quy y.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-2.2. Những lý do tại sao đấy là những chỗ nương xứng đáng.

    Lý do chính là những đức tính của Phật bảo. Có 4 lý do.

    a-2.2.1. Lý do thứ nhất.

    Đức Phật đã giải thoát khỏi nguy hiểm. Những người chết đuối hay bị sa vào đống cát lở không thể cứu lẫn nhau. Nếu chư Phật - những đấng cứu thế mà chúng ta quy y - chưa thoát hiểm, thì các ngài không thể giải thoát kẻ khác.

    Đức Phật đấng đạo sư chúng ta đã giải thoát khỏi tất cả những hiểm nguy. Đề bà đạt đa có lần muốn ám sát Phật đã sử dụng một cái máy để tung đá vào Ngài nhưng không thể làm hại được Ngài. Tại thành Vương xá, A xà thế thả ra một con voi say. Tất cả các A la hán khác đều sợ hãi bay lên không nhưng Đức Phật không sợ và đã hàng phục được con voi. Một gia chủ tên là Shrìgupta đặt một kế hoạch ném Phật vào hầm lửa nhưng Phật đã không bị đốt cháy. Shrìgupta còn đầu độc thức ăn của Phật nhưng cũng không thành công.

    (Sau khi Pabongka Rinpoche kể chi tiết chuyện này, ngài tiếp.)

    Shrìgupta, vợ ông ta và những người khác đã xem đấng Đạo sư như một người thường, có thể đem hầm lửa hay độc dược mà dọa. Người ta dễ so sánh chuyện này với chương nói về Thờ Kính Bậc Thầy trong đó nói rằng ta không thể chấp tướng bề ngoài. Đức Phật đã giải thoát mọi nguy hiểm; điều ấy chứng tỏ rằng Ngài đã từ bỏ hai loại chướng ngại cùng với những bản năng của chúng.

    a-2.2.2. Lý do thứ hai.

    Ngài thiện xảo về phương tiện giải thoát chúng ta khỏi hiểm nguy. Nếu Ngài giải thoát khỏi mọi nguy hiểm riêng tư mà không đủ thiện xảo để che chở những người khác, thì Ngài sẽ không làm gì được, cũng như người mẹ cụt tay không thể cứu đứa con đang chết chìm. Nhưng đức Thế Tôn rất thiện xảo trong cách hàng phục đệ tử. Ngài giải thoát cho những kẻ trọng tội như Chuỗi Ngón tay (Angulimala) người bị đốt cháy bởi ngọn lửa thù hận; Pramudita, vua của các nhạc thần; Ưu lâu tần loa Ca Diếp người bị ngọn lửa kiêu căng thiêu đốt; những sinh vật hùng mạnh như Dạ xoa nữ Hariti và Dạ xoa Atavaca; những người có năng khiếu chậm lụt như Châu lợi bàn đà già u mê ám chướng; những người già và ít công đức như gia chủ Shrijata; những người nhiều dục vọng như Nan đà. Thế đấy là sự thiện xảo của đức Phật trong cách hàng phục đệ tử.

    a-2.2.3. Lý do thứ ba.

    Ngài đối xử với tất cả bằng tâm bi mẫn không thân sơ. Nếu không như vậy thì Ngài chỉ giúp đỡ những người thân, không giúp những kẻ thù. Nhưng Đức Phật không có thân sơ với bất cứ ai. Không có khác biệt nào trong sự giúp đỡ và thân tình của Ngài đối với Đề bà đạt đa một kẻ thù và La hầu la con ruột của Ngài. Đề bà đạt đa ăn một lượng bơ rất nhiều để cạnh tranh với Phật, nhưng ông ta không thể tiêu hóa nên bị ốm nặng. Đức Phật đã cứu Đề bà đạt đa khỏi cơn bệnh bằng cách thề rằng Ngài thương Đề bà đạt đa và La hầu la bình đẳng.

    a-2.2.4. Lý do thứ tư.

    Đức Phật làm việc vì tất cả chúng sinh, dù chúng có giúp gì Ngài hay không. Chúng ta thì không thế: chúng ta còn không thèm chuyện trò với những người đã bị chà đạp, nói vài lời từ mẫn với họ, huống hồ là giúp đỡ. Chúng ta chỉ làm việc vì những người đã giúp chúng ta chứ không vì những người không giúp chúng ta; chúng ta không che chở những người cùng quẫn. Đức Phật thì không thế; Ngài làm việc vì tất cả mọi người, dù họ có giúp Ngài hay không. Ngài săn sóc kể ốm đau. Chẳng hạn, có lần Ngài đã rửa thân thể một tỳ kheo ốm nặng đến nỗi thân thể ông đầy cả phân tiểu do chính ông bài tiết. Ngài săn sóc cho những người bà la môn xấu xí có mười tám vẻ xấu và là một kẻ bị bỏ rơi ngay cả trong đám ăn mày. Đức Phật che chở và săn sóc cho người hất hạnh như con gái xấu xí dị hình của vua Ba tư nặc (Prasenaji) tên Vajrì có mặt như mặt heo, hay con trai của gia chủ Mahàmati tên Svàgata (Không được đón chào), người quá vô phúc đến nỗi sinh ra thì gia đình mất dần hết tất cả tài sản. Ông thành một kẻ ăn xin, nhưng gia nhập vào đám ăn xin nào là đám ấy không xin được chút gì để ăn. Ông bị đặt tên lại là “Không được đón chào.” Bất kỳ đi đâu không ai cho ông thứ gì, bởi thế ngay cả trong đám ăn xin ông cũng là kẻ bị ruồng bỏ. Dù ông đi hành hương người ta cũng không cho ông trở về.

    (Kyabje Pabongka Rinpoche kể chi tiết đức Phật che chở ông ta như thế nào.)

    Vậy đức Phật có tâm đại bi thương xót tất cả, không có kẻ thân người sơ. Lại nữa, Ngài còn làm việc cho tất cả hữu tình dù có giúp đỡ Ngài hay không giúp. Nhưng Ngài đặc biệt thương những kẻ khốn cùng. Nếu Ngài không thương, không có lòng bi mẫn lớn thì dù có xin cầu Ngài cũng không che chở. Nhưng đức Phật có những thiện đức như thế, nên chắc chắn Ngài ban cho chúng sinh sự che chở dù chúng sinh không yêu cầu.

    (Sau khi bàn sơ qua những lý do để quy y và quy y với ai, Kyabje Pabongka Rinpoche tiếp tục).

    Om Mani Padme Hum !

  5. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-3. Thế nào để biết ta đã chân thật quy y.

    Có bốn mục nhỏ.

    a-3.1. Biết rõ những thiện đức của chỗ ta nương cậy.

    Ta phải quy y bằng cách biết rõ những thiện đức của từng ngôi trong ba ngôi báu. Vậy có ba phần: (1) những thiện đức của từng ngôi trong ba ngôi báu. Vậy có ba phần: (1) những thiện đức của Phật; (2) những thiện đức của Pháp; 93) những thiện đức của Tăng.

    a-3.1.1. Những thiện đức của Phật.

    Đức Phật có bốn loại thiện đức: (1) về thân thể; (2) về lời; (3) về ý; (4) về hành động.

    (i) Những thiện đức của thân Phật.

    Quyển Trang Hoàng Cho Thực Chứng nói: “Tay chân Ngài đều có hình những bánh xe, lòng bàn chân bằng phẳng như ngực rùa…” Nghĩa là, thân thể Ngài được trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt. Kinh ấy cũng nói đến những móng tay màu đồng của đức Mâu ni…” Nghĩa là Ngài còn được trang hoàng bằng tám mươi tướng phụ.

    “Tướng” nghĩa là Ngài có dòng tâm thức của một bậc đại nhân. “Tướng phụ” làloại đức tính Ngài có bên trong. Thật rất ích lợi nếu ta nghĩ về những đức tự nhiên của các tướng hảo và tướng phụ, những đức của nguyên nhân các tướng ấy, vân vân. Quyển Tràng Hoa Báu của Long Thụ nói rằng nếu ta cộng lại tất cả công đức trong đời của những bậc Duyên giác và Vô học Thanh văn, Chuyển luân vương, vân vân, thì tất cả những đức ấy cũng không phát sinh được một lỗ chân lông của một vị Phật. Tất cả công đức cần có để phát sinh hết thảy lỗ chân lông Phật, nhân lên trăm lần, mới sinh được một trong ba mươi hai tướng hảo. Những công đức cần có để phát sinh ba mươi (trong số 32) tướng nhân lên ngàn lần, mới sinh được tướng bạch hào (sợi lông xoán giữa hai hàng lông mày của Phật). Công đức cần có để sinh tướng lông trắng này, nhân lên trăm lần, mới sinh được tướng Ushnisha (nhục kế). Công đức để sinh tướng hảo cuối cùng này, nhân lên gấp mười lũy thừa 14, sẽ được tiếng Phạm âm của Phật. Lại nữa, mỗi phần trên thân thể của một đức Như Lai, các tướng tốt và tướng phụ, đều là một bậc thầy dạy Pháp, và đều làm được công việc của ý giác ngộ. Ngay cả tướng nhục kế của Ngài, những lỗ chân lông của Ngài cũng đều làm công việc của ý giác ngộ và bởi thế đều nhận chân được cả hai khía cạnh tương đối và tuyệt đối của mọi cái khả tri.

    Tôi đã theo truyền thống của những bậc thầy thuộc hệ phái Lam-rim trong quá khứ khi giảng thiện đức của thân giác ngộ theo ba dòng của một bài kệ của Tsongkapa, đề cập thân, lời, ý:

    Thân thể sinh ra do mười triệu đức tính tuyệt hảo

    Lời nói thỏa mãn hy vọng của vô lượng hữu tình,

    Ý thấy được như thật tất cả pháp khả tri:

    Con kính lễ tối thượng trong dòng họ Thích Ca.


    Bất cứ gì được thân Ngài thẩm thấu thì cũng thấy được bởi lời và ý của Ngài. Do vậy, “Tất cả cõi Phật hiện thân Ngài và thân Ngài trong tất cả cõi Phật.” Đấy là những huyền bí bất khả tư nghì của thân giác ngộ. Một bản kinh nói: “Bất cứ cái gì mà trí bản giác của Ngài thấm đến, thì thân thể Ngài cũng đến.” Mỗi khi ta thấy tướng nhục kế trên đỉnh Phật thì ta chỉ thấy cao bốn tấc Anh, nhưng khi Bồ tát Vegadhàrin muốn đo, ngài phải dùng thần thông lên cao vô lượng thế giới hệ mà vẫn không trông thấy được đỉnh nhục kế của đức Như Lai, và ngài quá mệt không thể hoàn tất việc đo đạc. Việc này được nói trong Kinnh Về Những Việc Bất Khả Tư Nghì.

    Y phục của Phật thường cách thân thể của Ngài một khoảng cách bốn tấc, nhưng nhìn từ ngoài thì vẫn theo hình dáng của thân Ngài. Chân Ngài bước không chạm mặt đất mà vẫn để lại dấu chân Ngài đi qua cảm thấy được phúc lạc trong bảy ngày, và khi chết được sinh trên cõi trời. Tác phẩm “Xưng Tán Bằng Ẩn Dụ” nói:

    Thân Ngài được trang hoàng bằng tướng hảo

    Tuyệt đẹp, làm cam lồ cho những con mắt nhìn,

    Như một bầu trời không mây

    Được trang hoàng với những chòm tinh tú.

    Hỡi đấng Mâu Ni, Ngài là sắc vàng ròng

    Bao phủ một cách kỳ diệu trong lớp y phục

    Như một đỉnh núi vàng

    Vươn lên trên bờ những áng mây.

    Hởi đấng Che chở thế gian,

    Ngài không trang sức ngọc ngà

    Mà gương mặt còn hơn cả

    Vừng trăng rằm sáng chói

    Trên nền trời không mây,

    Như một đóa sen nở ra dưới ánh mặt trời.

    Những đệ tử như bầy ong dạn dĩ bay đến.

    Gương ánh sáng như vàng ròng của Ngài

    Thật đẹp với hai hàng răng trắng

    Như một dãy núi bằng vàng ròng

    Tắm dưới ánh trăng mùa thu.

    Ôi hỡi đấng Ứng Cúng

    Bàn tay phải của Ngài

    Được trang sức bằng dấu luân xa

    Đem lại can đảm cho những người

    Sợ hãi vì bánh xe sanh tử

    Hỡi đấng Mâu ni, mỗi khi Ngài cất bước

    Thì hai bàn chân như nở những đóa sen

    Để lại những đường nét trên mặt đất.

    Ôi đấng như Hoa Sen, Ngài thực đẹp làm sao!


    Hãy nhớ lại những đức ấy. Nếu cần nhiều chi tiết hơn, bạn phải tham khảo tác phẩm Trang Hoàng Cho Thực Chứng cùng các kinh khác.

    Lần sửa cuối bởi hoangtri; 03-17-2020 lúc 08:33 AM
    Om Mani Padme Hum !

  6. #6
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    (ii) Những thiện dức của lời Ngài

    Lời Ngài có sáu mươi vẻ khác nhau; một mật điển nói đến những đặc điểm căn bản là: “Mặc dù Ngài chỉ nói một chuyện, mà trong đám đông mỗi người hiểu theo hoàn cảnh riêng của mình. “Tsongkapa, hiện thân của Văn Thù, nói trong tác phẩm Những Bài Thơ Về Con Người Chân Thật:

    Nếu tất cả hữu tình thế gian

    Đồng loạt xin giải đáp nghi ngờ

    Ngài có thể hiện trước tất cả chúng

    Đồng lúc, với cùng một lời nói

    Sử dụng cùng một thân thể ấy,

    Giải quyết tất cả quan niệm sai lầm của chúng.


    Nghĩa là nếu nhiều hữu tình khác nhau hỏi đức Như Lai đồng thời nhiều câu hỏi, Ngài có thể thốt một lời duy nhất mà trả lời tất cả những câu hỏi ấy bằng chính ngữ ngôn của từng người và hợp với trình độ từng người. Đức Phật dạy ba loại Bát nhã khác nhau, kinh dài, kinh trung bình, và kinh ngắn, đồng một lúc. Do đó có ba kinh Bát nhã vì các trình độ của đệ tử không đồng.

    Lại nữa, lời Ngài dù cách xa mấy người ta cũng nghe được. Kinh nói về Những Việc Bất Khả Tư Nghì nói rằng Mục Kiền Liên dùng thần thông đi qua nhiều cõi Phật để đo lường sức bay xa của lời Phật, nhưng dù đi xa đến đâu ngài cũng nghe được lời Phật nói.

    Lời Ngài còn nhiều đức nữa, như trong Một Trăm Năm Mươi Bài Tán Phật nói:

    Gương mặt Ngài thật đẹp;

    Giọng nói Ngài như cam lồ

    Nhỏ xuống từ mặt trăng.

    Lời Ngài như đám mây đem mưa xuống

    Để rửa sạch bụi bặm tham ái,

    Vứt bỏ con rắn hận thù

    Như thần điểu garuda; chinh phục được

    Những tia nắng ngu dốt

    Như một cái lọng; như kim cương sắc bén

    Chinh phục ngọn núi kiêu căng.

    Vì Ngài đã thấy chân lý, nên Ngài không lừa dối

    Vì Ngài không lầm lạc nên Ngài nói trước sau như một.

    Khéo lập ngôn và dễ hiểu làm sao.

    Lời Ngài thật hùng hồn

    Vượt trên tất cả,

    Chính phục những người nghe;

    Ngay cả khi nhớ lại

    Cũng làm tiêu tan tham ái si mê.

    Nó an ủi những người khốn đốn

    Che chở người liều lĩnh

    Và làm cho người bình thản phải hăng lên;

    Như vậy lời Ngài thích hợp cho tất cả.

    Đem lại niềm vui cho học giả

    Khai tâm cho kẻ tầm thường

    Và phá tan sự mù mịt của người bực hạ.

    Lời Ngài là lương dược cho tất cả chúng sinh.

    Nhưng vẫn chưa hết: lời giác ngộ có vô lượng đức tính, cũng như có thể làm công việc của thân giác ngộ và ý giác ngộ.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #7
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ MƯỜI HAI
    __________________________________________________ ______________________________________


    (iii) Những thiện đức của ý Phật.

    Những điều này được đề cập chi tiết trong những cổ thư nói về những đức tính do 21 thành phần của sự tinh thức nguyên ủy: thập lực, mười tám bất cọng, vân vân. Những người học và quán những cổ thư cần quán giáo lý đặc biệt này để rút ra những lợi ích.

    Nói tóm, có hai hạng thiện đức: thiện đức do toàn trí và do từ bi. Vì chư Phật toàn tri, nên ngay cả khi Ngài đang trú trong thiền định về chân đế, Ngài cũng biết được tất cả những pháp khả tri rõ ràng như nhìn trái xoài trên bàn tay. Ta có thể biết điều này qua tác phẩm Ca Tụng Những Người Đáng Ca Tụng:

    Đức Thế Tôn, tất cả pháp trong ba thời gian,

    Tất cả những nguồn gốc của nghiệp,

    Đều được trí Ngài phán xét

    Như nhìn trái Am la trong bàn tay

    Tất cả hiện tượng

    Động hay bất động, một hay nhiều

    Đều mở ra trước tâm Ngài

    Không bị chướng ngại

    Như giữa bầu trời trong sáng.


    Một lần có một người dòng họ Thích Ca tên Nandaka chết. Những thầy tu viện thỉnh vong linh người chết khi họ cử hành tang lễ. Hình dáng người chết xuất hiện và những thầy cúng cho y thức uống ăn: y cư xử giống như Nankada thực, nhưng đấng Đạo sư cho họ biết đấy là do nhạc thần ở cõi Trời tạo ra. Nhưng những thân quyến không tin lời Phật.

    Một quyển kinh kể rằng đấng Đạo sư mời mỗi người Sakya đem lại một hạt lúa và làm dấu trên hạt lúa của mình. Có rất nhiều người đến nỗi lúa họ đem lại có thể chất đầy một thớt voi. Đức Phật nhận ra từng hột của mỗi người không sai một hột. Việc này làm cho mọi người tin lời Ngài nói.

    Truyền thừa Luật tạng kể rằng người ta đưa cho đức Phật nhiều mảnh gỗ đã cháy để dưới biển rất lâu mà Ngài vẫn nhận ra đúng từng mảnh. Không cần yếu tố gì khác, Ngài có thể nhận ra mãnh gỗ này đến từng vùng nào, nó thuộc về phần ngọn cây hay gốc cây.

    Năng lực thần thông của thân giác ngộ là khả năng thị hiện trước bao nhiêu đệ tử cũng được, như mười triệu, một tỷ v.v… Năng lực thần thông của ngữ giác ngộ là khả năng nói vói mọi người; có thể dạy pháp đồng loạt mà mỗi hữu tình hiểu theo ngôn ngữ và ước muốn của chúng. Năng lực thần thông của ý giác ngộ là tịnh chỉ nhất tâm như sau. Khi đức Đạo sư của chúng ta có ý niệm về thế gian thì tâm của các hữu tình khác, kể cả những con kiến, cũng hiểu được đức Như Lai muốn nói gì. Nhưng khi Ngài có một ý niệm siêu thế thì ngay cả những vị Bồ tát trong thân thể cuối cùng cũng không thể hiểu được tư tưởng của Phật. Khi đức Phật giảng kinh Bát nhã ba la mật, Ngài làm cho tất cả các thế giới đều trở thành thanh tịnh. Bởi thế tâm Phật có vô lượng đức tốt lành.

    Nhưng đức từ bi của Ngài được vị Dalai Lama thứ bảy mô tả như sau:

    Một người có thể ác độc đối với Ngài,

    Người khác có thể giận dữ muốn giết Ngài

    Nhưng Ngài luôn luôn nghĩ đến chúng sinh

    Như con của Ngài

    Ngài đã tránh xa

    Tất cả những tư tưởng làm hại

    Lòng yêu mến mà ta có đối với chính bản thân

    Cũng không thể sánh với đức bi mẫn trong tâm Ngài.

    Nói cách khác, loại tình yêu mà ta có đối với bản thân không thể sánh với dù chỉ một phần của tình yêu đức Phật đối với loài hữu tình. Lại nữa tình yêu của Ngài không như lòng thương xót “có cơn” như chúng ta: chúng ta chỉ cảm thấy thương xót khi ta trông thấy một hữu tình đau khổ, và không cảm thấy thương xót khi khuất mắt. Một Đức Phật luôn luôn thấy được tất cả hữu tình đang đau khổ; bởi thế lòng từ bi bao la của Ngài đối với chúng không bao giờ gián đoạn mà luôn luôn vận hành. Lòng bi mẫn của một Đức Phật là hậu quả của năng lực quen tập luyện từ khi Ngài mới bước vào đạo lộ. Điều này là ý nghĩa của bài kệ trong quyển 150 bài tán Phật:

    Tất cả những chúng sinh này không khác gì nhau

    Chúng đều bị vọng tưởng trói buộc

    Ngài đã bị trói buộc từ lâu bởi lòng bi mẫn

    Và sẽ giải thoát những chúng sinh mê lầm

    Trong quyễn Những Bài Thơ Về Con Người Chân Thật:

    Tâm của tất cả hữu tình luôn luôn bị che phủ

    Bởi bóng tối vô minh

    Bậc đại thánh thấy được

    Tất cả chúng sinh trong ngục tù sinh tử và phát tâm đại bi.


    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •