GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAYPHẦN BA NỀN TẢNG CỦA ĐẠO LỘ _ Ngày thứ chín__________________________________________________ ______________________________________
b. Những điều ta có được.
Có mười điều: năm thuộc cá nhân, năm liên hệ đến người khác.
b-1. Năm điều thuộc cá nhân.
Quyển Trình Độ Thanh Văn nói:
Làm người, sinh chỗ trung ương;
Các căn đầy đủ; không năm tội ngịch;
Và có lòng tin kiên cố.
Điều ta có được thứ nhất là được làm người. Cõi người thù thắng hơn các nẽo luân hồi khác vì có tiềm năng thực hành các pháp tu có lợi cho những đời sau. Hiện tại đương nhiên chúng ta là những con người - song điều này dường như chưa giúp gì cho ta cả.
Được sinh vào chỗ trung ương có nghĩa là, vào thời mạt pháp, ở một nơi ít nhất có đủ tứ chúng tăng già. Các căn đầy đủ, nghĩa là sanh ra có đủ các giác quan. Lại nữa, những người có hai căn, người không có nam căn, vân vân, đều không đủ tư cách thọ giới biệt giải thoát (pratimoksha). Vậy, vì bạn không sinh làm những hạng người như vậy, nên bạn chỉ là “có đầy đủ các căn.” Không phạm tội ngũ nghịch là, người ta sẽ không đắc quả A la hán trong đời này được nếu đã phạm những tội ấy. Chúng ta cũng không rơi vào trường hợp này. Lòng tin kiên cố được giải là tin vào giới luật, nhưng ở đây phải là tin cả ba tạng và tin pháp Lam-rim.
Người ta phải bản thân có đủ năm điều ấy, nên gọi là “thuộc cá nhân.”
b-2. Năm điều liên hệ người khác.
Một đức Phật ra đời và giảng Pháp;
Giáo lý còn đó và được người tin theo;
Nhưng người khác thường có lòng yêu mến trong tâm khảm.
Ở một thế giới không có Phật xuất hiện thì cũng sẽ không có Pháp. Nếu có Phật xuất hiện, nhưng ta lại chết trước khi Ngài giảng Pháp thì cũng lại vô ích. Hai điều kiện này nói một cách chặt chẽ thì quả ta không hội đủ, nhưng những bậc thầy chúng ta đang còn để thay Phật, nên có thể nói ta cũng có hai sự này.
Những giáo lý phải được giữ trong hai trạng thái chưa suy đồi và người nào thực hành sẽ đắc đạo lộ chân thực của bậc thánh. Hiện tại thời gian năm ngàn năm truyền thừa giáo Phật chưa chấm dứt. Tuy nhiên, mặc dù giáo lý còn được truyền, mà quả của giáo lý chỉ được nẩy sinh trong dòng tâm thức của riêng bạn, nếu bạn có triển khai thực chứng đi sâu vào những lời dạy. Như những tu sĩ phái Kadam ngày xưa nói, thì điều này chưa xảy ra: chúng ta không có giáo lý trong dòng tâm thức của mình, bởi thế đừng nên để cho phần giáo lý ta có được phải tiêu mất. Nghĩa là giáo lý Phật vẫn lưu hành rộng rãi bên ngoài, song nếu nó chết đi trong dòng tâm thức của bạn, thì như vậy là phần riêng bạn về giáo lý đã mất.
Không những giáo lý Phật phải tồn tại, mà nó còn phải được bảo trì nguyên vẹn mới được. Trong tất cả những giáo điều của các tông phái Ấn Độ và những giáo lý của Phật giáo Tây Tạng tiền và hậu kỳ, những giáo lý quý nhất là vô cấu là những pháp phối hợp được tri kiến thuần tịnh và những pháp tu của cả kinh giáo lẫn mật giáo, chẳng hạn giáo lý của đức Tsongkapa nhà cải cách, hiện thân của Bồ tát Văn Thù vị Hộ trì pháp, những giáo lý thuần tịnh như vàng ròng. Giáo lý ấy thịnh hành khắp Tây Tạng, và bạn đã được gặp. Điều ấy xảy đến cho bạn là chuyện hy hữu nhất trong những điều hy hữu. Giáo lý của đức Tsongkapa về Kinh điển và Mật điển hùng hồn hơn bất cứ thời nào trước đấy. Tagtsang dịch gia nổi tiếng, lúc về già mới thấy được những nét đặc thù của giáo lý ấy đánh trúng chỗ. Còn nhiều lời ca tụng tương tự, nhưng nếu phải nói cho bạn nghe một cách chi tiết tại sao giáo lý về Kinh Mật ấy lại thù thắng hơn mọi giáo lý khác, thì tôi phải bỏ cả mấy ngày để nói cũng không hết. Một lần một người Mông Cổ tặng đức Panchen Lama một món quà, và được báo cho biết ông ta sẽ tái sinh làm người. Điều này cũng sẽ xảy ra nếu ông ta cầu nguyện được gặp giáo lý Phật. Ai biết được cái gì sẽ xảy đến nếu ông ta đã cầu nguyện phải được giáo lý của Tsongkapa!
Bạn đã gặp được giáo lý như thế, và không chỉ thế mà thôi: điều có được thứ tư cũng thành tựu - giáo lý đang được theo - bởi vì không bị hoàn cảnh nào khác làm chướng ngại, bạn dễ dàng từ bỏ đời sống thế tục mà xuất gia. Thực sự “nền giáo lý đang được theo” có nghĩa rằng bạn có thể thấy rõ những người chứng bốn quả Thanh văn là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Vậy điều có được thứ tư liên hệ đến người khác, - như được bàn trong Trình Độ Thanh Văn - thì chỉ áp dụng cho những người như tỳ kheo Udayì, chứ không phải cho người như Long Thụ chẳng hạn. Vào thời “giáo lý tuệ giác” (thời kỳ đầu của nền giáo lý) những người đã đắc bốn quả thường nêu gương cho chúng tăng; ngày nay, những công hạnh của bậc thánh cũng nêu gương cho ta, bởi thế sự kiện này dùng làm thay thế cho sự đáp ứng điều có được thứ tư.
Điều có được thứ năm liên hệ đến người khác - rằng con người nói chung phải yêu mến cha mẹ tận đáy tim; có nghĩa là những thí chủ cung cấp những điều kiện thuận lợi cho việc học Pháp, và người ta nói chung đều có tâm tốt. Vậy điều này cũng được hội đủ. Thật vô cùng khó được cả 18 lợi ích này, thế mà ta có đủ cả. Đó là nhờ trong đời quá khứ ta đã cầu nguyện đúng cách; chúng ta cầu mong có được mười điều và đừng bị rơi vào tám nạn. Vậy bây giờ ta đã thoát khỏi tám nạn và được mười điều tốt lành.

Trả lời với trích dẫn