GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ năm
__________________________________________________ ______________________________________
Sự bày ra Núi Tu di và bốn đại lục trong mandala là theo Thế Thân (Vasubandhu) trong tác phẩm Kho tàng Siêu vật. Hãy tham khảo quyển này để biết thêm chi tiết về trưng bày của madala. Các biển và Núi Tu Di được vây quanh bằng một vòng núi sắt. Ở trung tâm là núi Tu di làm bằng bốn báu vật. Mặt phía đông màu trắng, nam xanh, tây đỏ, bắc vàng chói.
Tưởng tượng có rất nhiều núi báu v.v… trên mỗi đại lục. Những núi báu, cây ước là tài nguyên của mỗi đại lục đặc biệt ấy. Bò ước được làm bằng châu báu, phân tiểu nó toàn bằng vàng ròng. Mùa gặt không cần cày cấy gồm một thứ lúa không có vỏ trấu, gặt buổi sáng thì chiều đã mọc lại, gặt buổi chiều thì sáng đã mọc lại. Trong madala hai mươi lăm tụ, bạn không làm những “tụ” riêng cho bốn thứ này (núi báu, bò báu, lúa báu-DG) vì chúng ta đã bao hàm trong sự hiến dâng bốn đại lục.
Bảy biểu tượng báu của vương quyền được nói trong câu thơ: “Làm bằng vàng lấy từ biển Jàmbuna…” Bảy báu này (thêm bình báu) bềnh bồng trong hư không, xâm chiếm bốn phương tám hướng giữa các đại lục và núi Tu di. “Tụ” tám thần nữ thần nữ của sắc đẹp, v.v… - thuộc về madala 37 tụ nói trên, mặc dù chính những nữ thần thì đứng trên những chiếc xe xung quanh núi Tu di (trong sự quán tưởng). Nhưng trong madala 25 tụ thì bạn không làm một tụ nào để biểu trưng cho các nữ thần ấy, vì bạn đã dâng hiến một tụ biểu trong núi tu di.
Tụ biểu trưng mặt trời ở về phía trái Tu di sơn, tụ mặt trăng ở bên phải, lọng báu ở phía sau, tràng phan ở trước, hướng về phía bạn - đây là điểm tốt lành. Bạn cũng có thể đặt mặt trời ở phía tây, mặt trăng ở phía đông, lọng báu phía bắc, tràng phan phía nam. Đây cũng là điềm lành.
Hãy dâng hiến những của cải của chư thiên và nhân loại trong khi lmà một tụ ở chính giữa.
Đừng quán madala lớn hơn thực tế, nhưng quán bốn đại lục, các cõi trời vân vân, cách nào để chúng cũng không nhỏ bớt. Vị giáo đạo Tsechogling cho một ví dụ bổ ích trong khi ngài ở Tsehilhuenpo: bạn có thể thấy toàn thể gương mặt một người trong một cái bọt nước nổi lên trên chén trà. Nó cũng giống như thấy một gương mặt nhỏ trong một cái gương lồi, hay nhìn một ngọn núi qua một lỗ kim.
Bạn phải tuần tự quán cho đến lúc thấy được hàng tỷ vũ trụ trong ba giai đoạn - mỗi lần nhân sự quán của bạn lên gấp ngàn lần. Nói cách khác, bắt đầu với một nhóm ngàn thế giới, rồi một ngàn nhóm ngàn thế giới, rồi ngàn lần của những nhóm sau này.
Theo tôi, câu “Con dâng madala này, rưới đầy nước thơm…” là câu mà Sadàprarudita (xem ngày thứ bảy, trang…). Có hai bản khác nhau: một bản nói: “Tất cả được quán tưởng cho cõi Phật…” còn bản kia là “Tất cả được quán đi vào một cõi Phật…” “Cho” nghĩa là phép quán được thực hiện “cho những vị Phật trong ruộng phước.” Nhưng có thể bậy nếu cúng các ngài cai thế giới bất tịnh gồm núi Tu di cùng bốn đại lục. Như vậy “đi vào một cõi Phật” có nghĩa là những thứ này chỉ bất tịnh trong một sác na đầu tiên của sự quán tưởng mà thôi; sát na kế tiếp tất cả chúng đều được chuyển hóa vào một môi trường thanh tịnh. Hai cách quán này mỗi thứ đều có chỗ lợi lạc tương ứng của nó.
Dagpo Rinpoche nói trong tác phẩm Thi Ca về Mandala: “Phạm Thiên, Đế Thích giúp đỡ người trì giới…” Nghĩa là, bạn nên quán tưởng các vị ấy đang giúp đỡ bạn làm madala dâng hiến, nếu bạn là những tăng ni trì giới. Nếu bạn chưa thụ giới, thì cũng phải nhờ một tỷ kheo giúp bạn. Nhưng núi Tu di và bốn đại lục được hình thành do cộng nghiệp của hữu tình, bởi thế bạn không cần sự giúp đỡ của Phạm Thiên, Đế Thích, v.v… để làm madala dâng hiến: toàn thể thế giới hệ gồm núi Tu di và bốn đại lục là y báo của phần riêng bạn trong cọng nghiệp ấy.
Hãy quán một tỷ thế giới hệ gồm núi Tu di và bốn đại lục trong mỗi hệ, nếu bạn làm được sự quán tưởng ấy. Nếu không, chỉ cần quán một thế giới hệ là đủ. Nếu bạn dâng cúng madala một cách thích đáng, thì cũng lợi ích giống như thực sự dâng bốn châu lục địa và núi Tu di, v.v… Như khi vua A Dục còn là một cậu bé trong tiền kiếp, ông đã đặt bụi đất và bát khất thực của Phật Tỳ Bà Thi, mà tưởng tượng bụi ấy là vàng ròng. Tuy vậy ông đã nhận được sự lợi lạc cũng như dâng cúng vàng thật, và hậu quả là về sau ông được tái sanh làm vua A Dục, và đã xây mười triệu bảo tháp trong một ngày. Vậy không gì tốt hơn là dâng cúng một madala vũ trụ để tích lũy công đức - điều ấy hoàn tất sự tích tập của bạn, điều ấy thực thuận tiện và là một việc làm thẳng thắng, vân vân. Bởi thế, quả là một vật thiết cốt để sở hữu, cái đáy bất bằng đồng thau hình tròn này!
Cuối lễ dâng madala, bạn nghiêng cái đáy về phía bạn hoặc phía ngoài, khi trút những gì chứa trong ấy vào lại trong túi vải đựng chúng. Nếu bạn cần ban thêm phước, thì hãy trút chúng về phía mình; nếu muốn tránh né những sự can thiệp, thì hãy hướng ra khỏi mình để trút.
Hãy cốt làm sự quán tưởng cho đúng cách hơn là làm thật nhiều lễ dâng hiến madala. Khi bạn muốn có một số lượng nhiều về bất cứ gì, chỉ cần làm phần dâng hiến thuộc nghi thức chuẩn bị này nhiều lần là được. Hãy tụng câu: “Con cho đến ngày giác ngộ, con xin quay về nương tựa Phật, Pháp và thánh chúng…”; đoạn làm sự dâng hiến gồm bảy tụ: một tụ cho núi Tu di, bốn tụ cho bốn đại lục, một tụ cho mặt trời, một cho mặt trăng.
Tỷ kheo ni Lakshmì có những linh kiến về Thánh Quán Tự Tại sau khi đã dâng cúng một số lượng madala. Đức Tsongkapa chuyên cần làm những lễ dâng madala trong khi ở Oelga Choelung, và kết quả là ngài triển khai chánh kiến. Bởi thế, ai cũng nên nỗ lực để thực hành pháp môn này.