GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
__________________________________________________ ______________________________________
Thế ngồi có tám sắc thái nói trên đây là ám chỉ cái thế ngồi Tỳ lô giá na với bảy đặc điểm; sắc thái thứ tám là hành vi đếm hơi thở. Gyaelwa Ensapa nói:
Đùi, tay, lưng là ba
Răng môi lưỡi là bốn
Đầu, mắt, vai, hơi thở
Là tám thế Tỳ lô giá na.
Hai ống chân đặt theo thế hoa sen hay kiết già (vajra). Cũng có thể ngồi theo thế bán già là thế ngồi của Bồ tát. Nhưng thế kiết già là bắt buộc cho những thiền tập trong Mật tông ở giai đoạn viên mãn.
Đặt hai bàn tay trong dáng ngồi nhập định, nghĩa là bàn tay phải nằm trong lòng tay trái, hai đầu ngón cái giao nhau ở ngang rốn. Lưng thẳng, cột sống thẳng như một chồng xu. Người ta bảo những huyệt đạo nằm thẳng hàng khi cơ thể ở vị trí thẳng đứng, và khi ấy khí được điều hòa, tâm trở nên dễ sử dụng.
Răng và môi không được quá chặt cũng không quá lỏng, tốt hơn cả là để chúng tự nhiên. Đầu lưỡi trên cong lên trên, khiến miệng không bị khô, và khi đi sâu vào thiền định, nước bọt không bị nhễu ra ngoài.
Đầu nên hơi cúi về phía trước. Có người bảo hai mắt nên tập trung vào chót mũi, song kỳ thực bạn chỉ nên tập trung vào tư thế để mắt bạn có thể thấy cả hai bên mũi. Mục đích là để cắt đứt sự hôn trầm hay tán loạn (xem Ngày Thứ Hai Mươi Mốt, trang…). Có người nhắm nghiền mắt lại trong lúc quán tưởng. Điều này sai. Có những phái khuyên nhìn lên, v.v… bắt chước những người có quan năng tốt nhất, những người có cái biết của pháp thân. Nhưng điều này xa lạ với truyền thống của chúng ta.
Hai vai nên ngang nhau đừng bên cao bên thấp.
Đấy là bảy điểm của thế Tỳ lô giá na. Nó có ý nghĩa sâu xa trong giai đoạn viên mãn, nhưng đây không phải là chổ để bàn đến. Thế ngồi này rất quan trọng, vì Marpa ở Lhodrag nói: “Toàn thể thiền định của Tây Tạng không sánh bằng một kiểu ngồi của tôi.” Thế ngồi này được nói là của Phật Tỳ lô giá na vì ngài là khía cạnh thuần tịnh của sắc uẩn dưới dạng một chư Thiên.
Sắc thái thứ tám là hành vi đếm hơi thở. Khi tâm vương bất thiện thì tâm sở tùy tùng cũng bất thiện nốt. Trong tình huống ấy, thật rất khó để hô triệu một tâm thể đức hạnh hiện ra. Ví dụ bạn có thể làm một cách máy móc sự khởi tâm Bồ đề như là tụng câu: “Vì tất cả những hữu tình, những bà mẹ của tôi…” trong lúc bạn rất tức giận; nhưng bạn không thể cố hô triệu được một tâm trạng đức hạnh trong khi tâm vương và tâm sở đều bất thiện. Vậy trước hết bạn phải thay đổi tâm trạng từ giận dữ đến dửng dưng. Như có một tấm vải trắng đầy vết đen. Nó khó mà nhuộm thành màu khác. Nhưng nếu bạn giặt cho nó toàn trắng thì khi ấy có thể nhuộm bất cứ màu gì.