GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN MỘT NHỮNG CHUẨN BỊ SƠ KHỞI _ Ngày thứ ba
__________________________________________________ ______________________________________


B. CÁCH GIẢNG DẠY PHÁP

Có bốn phần (1) nghĩ về những lợi lạc của việc giảng dạy pháp; (2) kính pháp và bậc thầy giảng pháp; (3) cần nghĩ và làm gì trong khi giảng dạy; (4) khác nhau giữa những người bạn nên dạy và những người bạn không nên dạy.

1. Nghĩ về những lợi lạc của việc giảng Pháp

Điều cốt yếu là người giảng pháp không nên biến sự bố thí Pháp thành một cái gì do vô minh làm động lực. Vasubandhu (Thế Thân) nói:

Đừng để hành vi bố thí Pháp trở thành một hành vi ngu si.

Hãy giảng dạy Kinh điển thuần tịnh một cách như pháp.


Nếu bạn dạy với hy vọng được cúng dường, cung kính, được nổi tiếng là học giả, vân vân, thì sự giảng dạy của bạn thay vì lợi lạc lại rất có hại. Bạn còn mất bớt công đức nữa. Vậy, bạn chỉ nên vì lòng bi mẫn mà giảng pháp, vì muốn lợi lạc cho đệ tử, ngay cả không kể tới hậu quả nghiệp mà bạn có thể đón nhận do sự giảng dạy của bạn. Chuzang Lama Rinpoche Yeshe Gyatso nói:

Tôi nghe lỏm ông ta giảng dạy

Và làm phép quán đảnh;

Ông ấy làm mọi sự tốt

Nhưng ông ta làm cho tôi ngao ngán

Tột đáy sâu của tim tôi

Khi ông hăng hái

Yêu cầu đóng góp tiền bạc.


Nói cách khác, điều này không được xảy ra. Sự giảng dạy là tốt nhất khi giảng sư không màng gì đến sự cúng dường vật thực.

Kinh Lời Khuyên Hành Vị Tha đề cập đến hai mươi lợi ích:

Này Di Lặc, một sự Pháp thí không nhằm được cung kính cúng dường, có hai mươi lợi ích: Một, ta sẽ có trí nhớ tốt; hai biết phân biệt; ba thông minh; bốn kiên trì, năm có trí tuệ; sáu sẽ đạt xuất trí; bảy bớt chấp thủ; tám bớt sân; chín bớt si; mười Ma không thắng nổi; mười một được Phật thương tưởng; mười hai được phi nhân phù hộ; mười ba chư Thiên hỗ trợ sự sáng suốt; mười bốn kẻ thù không làm hại được; mười lăm không bị xa lìa thân quyến; mười sáu lời nói có sức mạnh; mười bảy được sự vô úy; mười tám tâm hồn thoải mái; mười chín được những học giả ca ngợi; hai mươi hành vi bố thí pháp ấy sẽ trở nên đáng nhớ.

Đầu tiên “có trí nhớ tốt” nghĩa là ta sẽ không quên Pháp. “Biết phân biệt” là niềm xác tín có được do những hình thức thiền định tối hậu. “Thông minh” ám chỉ niềm tin có được do những phép quán thông thường. “Kiên trì” có nghĩa là không thể bị lay chuyển. “Có trí tuệ” ám chỉ thế tục trí đạt được trong đạo lộ tích tập và chuẩn bị; “xuất thế trí” là trí đạt được trong những đạo lộ kiến đạo và thiền quán.

Sáu trong hai mươi lợi lạc này là kết quả tương ứng với nguyên nhân đầu tiên. Bốn lợi lạc khác là do những trạng thái tách rời states of separation. Sáu lợi lạc là y báo, và có một quả do sự thuần thục của nghiệp (xem ngày thứ mười ba, trang...)

(Pabongka Rinpoche nói nhiều về chi tiết đề tài này).

Những lợi ích khác được nói trong Kinh do Ugra Thỉnh Vấn, trong đó nói dù một vị Tỷ kheo chỉ bố thí một câu Pháp cũng có nhiều công đức hơn một cư sĩ bố thí vô số của cải vật chất.

Các bạn nên ghi nhớ những lợi lạc này trong tâm, và bạn sẽ mong muốn giảng Pháp và cảm thấy rằng nói Pháp đã là một nguồn vui cho chính bạn. Đây không chỉ là những lợi ích do sự giảng Pháp đem lại khi ngồi trên một pháp tòa thật cao; mà những vị thầy dạy cho đệ tử cũng không lợi lạc như thế. Lại nữa, khi bạn đọc một bản Kinh, hãy tưởng tượng rằng mình đang đọc cho thính chúng trời, rồng, phi nhân, vân vân đang ở quanh mình. Bạn cũng sẽ được lợi lạc tương tự nếu như làm như thế. Khi bạn muốn học thuộc lòng một bản Kinh bạn cũng làm như vậy. Bạn cũng được lợi lạc do nói chuyện pháp thoại với những người khác bằng cách dạy cho họ những điểm nòng cốt để thay đổi cách cư xử của mình. Nhưng có điều khác nhau cần để ý là, bạn có phải là bậc thầy của người nghe bạn hay không ?.