GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN MỘT NHỮNG CHUẨN BỊ SƠ KHỞI _ Ngày thứ ba
__________________________________________________ ______________________________________
I. TÍNH CÁCH VĨ ĐẠI CỦA PHÁP, ĐƯỢC NÓI ĐỂ TĂNG NIỀM KÍNH PHÁP.
Pháp Lam-rim có bốn sự vĩ đại và ba nét đặc thù để phân biệt với những giáo lý cổ điển khác. Bốn sự vĩ đại là:
1. Sự vĩ đại giúp bạn nhận ra rằng tất cả những lời dạy đều ăn khớp.
2. Sự vĩ đại giúp tất cả Kinh điển đối với bạn đều trở thành lời chỉ giáo.
3. Sự vĩ đại giúp bạn dễ dàng khám phá ý thật của Đấng Chiến thắng.
4. Sự vĩ đại giúp bạn tự cứu thoát khỏi những tà hạnh tệ nhất.
A. TÍNH CÁCH VĨ ĐẠI CHO BẠN NHẬN RA RẰNG MỌI GIÁO LÝ ĐỀU ĂN KHỚP
Giáo lý ở đây chỉ cho Kinh điển của Phật thuyết. Luận về Ngọn Đèn Tuệ của Bhàvaviveka nói:
“Giáo lý có nghĩa như sau: những Kinh điển của đức Thế Tôn dạy không cong quẹo về những điều mà chư Thiên và nhân loại nào mong muốn vị cam lồ cần biết, những điều chúng cần từ bỏ, những điều chúng cần làm hiển lộ, và những điều chúng cần quán tưởng.”
“Nhận ra tất cả giáo lý đều ăn khớp” có nghĩa rằng mỗi người đều phải thực hành những lời dạy ấy để được Giác ngộ.
“Ăn khớp” có nghĩa là hòa điệu. Đại thừa, Tiểu thừa, Luật và Mật điển, vân vân, có vẻ như đối chọi lẫn nhau trên phương diện ngôn ngữ văn tự, nhưng tất cả đều là pháp tu chính yếu đưa đến Giác ngộ hoặc là một con đường tắt đưa đến Giác ngộ. Bởi thế những giáo lý ấy đều ăn khớp với nhau. Giả sử bạn bị sốt nặng. Lúc đầu y sĩ cấm bạn dùng thịt, rượu, vân vân, và bảo: “Những thứ ấy sẽ nguy hiểm cho ông nếu ông không từ bỏ chúng.” Nhưng về sau, khi cơn sốt đã hạ, và yếu tố “phong” quá thạnh nơi con bệnh, thì bác sĩ lại khuyên ăn thịt vân vân. Chỉ có một con bệnh ấy, một y sĩ ấy, mà có hai lời khuyên - lúc đầu cấm thịt, lúc sau khuyên ăn - dường như không ăn khớp nhau. Song kỳ thực không phải như vậy, vì cả hai lời khuyên ấy đều cốt ý chữa lành cùng một con bệnh.
Tương tự, bạn có thể nghĩ “Tiểu thừa, Đại thừa, Kinh giáo, Mật giáo, vân vân mỗi thứ cốt dành cho những hạng đệ tử đặc biệt, không phải tất cả giáo lý ấy đều dành cho một người thực hành để đạt Giác ngộ.” Nhưng cũng không phải vậy. Một người đang nói cho một người nghe về những pháp tu để Giác ngộ. Khi người nghe đang ở trình độ Nhỏ hay Trung bình, thì đầu tiên đức Phật giảng giáo lý Tiểu thừa. Vị ấy phải quán vô thường, khổ. Sau khi đã tiến bộ, vị ấy bây giờ ở vào trình độ Phạm Vi Lớn, nên giáo lý Đại thừa được giảng cho vị ấy. Bây giờ vị ấy thụ giáo về tâm Bồ đề, về sáu hạnh Ba la mật, vân vân. Và khi vị ấy trở thành một pháp khí thích hợp với Mật điển, đức Phật giải thích về Kim cang thừa: hai giai đoạn của Du già tối thượng và những thực hành mật có đôi. Tuy nhiên tất cả những pháp ấy đều thích hợp cho một người như bạn tu để giải thoát. Bởi thế bất cứ một Kinh điển nào của Đấng Chiến thắng cũng thuộc về hoặc là một dòng chính của đạo lộ hoặc là một trong những con đường tẻ của đạo lộ; không một Kinh nào của thừa đối với một người tu để đạt Tuệ giác.
Mối bận tâm chính của một Bồ tát là làm việc cho lợi ích của tất cả hữu tình. Như vậy Bồ tát phải dạy cả ba con đường để hướng dẫn ba hạng đệ tử (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) đi đến giải thoát theo cách riêng của họ. Nhưng nếu Bồ tát tự mình không biết ba con đường ấy thì không thể dạy lại cho người khác. Dharmakìti (Pháp xứng) nói trong tác phẩm Luận về những Pháp Có Giá Trị rằng: “Những phương tiện để đạt đến những cứu cánh này thật tối nghĩa; thật khó bàn luận về chúng.” Con đường đưa đến sự liễu tri cả ba đạo lộ thuộc ba thừa là cái mà Bồ tát cần phải khai triển trong dòng tâm thức của mình để bảo đảm về những con đường khác nhau mới có thể đem đến lợi lạc cho hữu tình. Kinh dạy:
“Này Tu bồ đề, Bồ tát tu tập tất cả các đạo lộ, dù là đạo lộ Thanh văn, đạo lộ Duyên giác hay đạo lộ Bồ tát, Bồ tát liễu tri tất cả đạo lộ.”
Trong tác phẩm của Maitreya (Di Lặc) nhan đề Trang Hoàng Cho Sự Thực Chứng, chúng ta thấy câu này: “Những người muốn làm việc cho hữu tình thì nên lợi lạc thế gian bằng cách liễu tri các đạo lộ.”