GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(ii) Cạm bẫy thứ hai: Quên chỉ giáo
Đây là điều chúng ta gọi là không nhớ đề mục thiền; nó rất tai hại cho sự thực hành tâm tịnh chỉ. Trái tim của Trung Đạo nói:
Hãy buộc chặt con voi hoang là tâm ý
Vào cái cọc chắc chắn của sự quán tưởng
Dùng sợi dây “niệm”;
Làm thuần nó bằng móc câu trí tuệ.
Bạn phải cột con voi tâm vào cái cột quán tưởng, phép quán mà bạn sử dụng. Bạn cần một cái gì để buộc tâm vào - nghĩa là, pháp quán được dùng để phát sinh tâm tịnh chỉ. Đề mục thiền có thể là bất cứ hiện tượng nào được quán, hay một pháp đặc biệt nào. Ngoại đạo dùng đá và những mảnh gỗ để quán. Những người theo đạo Bon quán mẫu tự A. Như vậy những người khởi sự đạt tâm tịnh chỉ sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, nhưng đây chỉ là những đối tượng quán. Có những người có nhìn bằng mắt những đối tượng quán, nhưng pháp thiền này không bằng hai pháp đã đề cập, vì tâm tịnh chỉ cần phải đạt bằng tâm chứ không phải bằng con mắt. Dù sao, những phương tiện này cũng ngăn chận được một số vấn đề, như năm hố sâu nói trên. có lần một người từ Ấn sang đây (Tây Tạng) dùng một cái sừng bò làm đối tượng quán. Ông ta không sử dụng các loại đối tượng thuần tâm linh khác để đạt chín tầng thiền chứng, nhưng vẫn đạt tâm tịnh chỉ. Điều này chứng tỏ bạn có thể đạt tâm tịnh chỉ với bất cứ đối tượng quán nào mà bạn dùng.
Tuy nhiên, khi chúng ta tu tập để đạt tịnh chỉ, ta thường quán tưởng hình tượng Phật phù hợp với truyền thống khẩu quyết bắt nguồn từ Tsongkapa. Một mặt, pháp quán tưởng này giúp bạn tích lũy công đức và thanh lọc chướng ngại. Mặt khác, nó làm cho bạn quen với pháp thiền quán về thiền thiên trong các mật điển. Thật lợi lạc vô cùng nếu ta luôn luôn nhớ Phật. Vân vân.
Từ bậc thầy của bạn được quán ở trên đỉnh đầu, nói lên đức Đạo sư Thích Ca Mâu Ni. Ngài đến an vị trước mặt bạn, ngang chỗ trống giữa đôi chân mày. Ngài cao chừng một gang tay. Bạn cũng có thể quán tưởng Ngài an vị ngang với tấm rốn của bạn. Hoặc, hãy quán tưởng bạn biến thành Thích Ca Mâu Ni.
Có người thích tưởng tượng những vô sắc làm đối tượng quán, hơn là quán một cái gì thuộc vật lý. Bởi thế Panchen Lama Lozang Choekyi Gyaeltaen khởi đầu một truyền thống trong giáo lý ngài về Đại Thủ Ấn của Hoàng Mạo phái phù hợp với tư tưởng của Rinpoche trong Những Giai Đoạn Giữa Của Đạo Lộ. Trong truyền thống này, bạn đạt tịnh chỉ nhờ tập trung vào chính cái tâm của mình; và những người nói trên có thể thích sử dụng pháp này. Nó còn có tương đương của nó trong các tông phái khác, nhưng phải chủ trương theo dõi sự vận hành có ý thức của tâm. Cũng có thể đạt tịnh chỉ bằng cách quán hình ảnh một vị thiên, như trong giai đoạn phát sinh, hoặc quán mẫu tự A hay một lằn thẳng đứng, như trong giai đoạn thành tựu. Còn có nhiều pháp quán để đạt tịnh chỉ khác, bằng cách biến mãn đối tượng ra cùng khắp, sử dụng một cái “mánh” nào đó, một hoạt động nào đó, hoặc quán một vọng tưởng đã được tịnh hóa. Trong thực hành, hãy sử dụng bất cứ phương pháp nào bạn thấy dễ nhất cho mình để quán tưởng cho đến khi đạt tâm tịnh chỉ. Đừng thay bằng một pháp quán nào khác. Bạn không được quán cả bốn đối tượng tả trong kinh (thân, cảm thọ, tâm và các pháp). Bạn phải dẫn tâm vào một đối tượng duy nhất. Và đối tượng ấy phải làm bạn cảm thấy thoải mái dễ chịu. Bồ tát Mã Minh nói:
Hãy kiên cố trong sự quán tưởng:
Luôn luôn dùng một đối tượng quán ấy.
Nếu quán nhiều đối tượng liên tiếp,
Thì tâm bạn sẽ bị kích động bởi vọng tưởng.
Nói cách khác, hãy dán tâm vào một pháp quán duy nhất khi bạn thiền. Bạn sẽ không đạt tịnh chỉ nếu cứ đổi đối tượng quán. Giả sử bạn cọ hai thanh gỗ vào nhau để lấy lửa, mà cứ đổi thanh khác thì không bao giờ có lữa. Hơn nữa, bạn phải thiền liên tục để đạt tâm tịnh chỉ, trừ khi bạn ăn, ngủ, bài tiết, cũng như bạn phải luôn cọ hai thanh gỗ cho đến khi có lửa. Hãy làm việc ấy cho đến khi hoàn tất tâm tịnh chỉ - trong sáu tháng, một năm hay hơn nữa. Bạn sẽ không đạt tâm tịnh chỉ nếu bạn đâm chán và khởi sự tu kiểu gì khác, hoặc nếu bạn nghỉ xả vài ngày, vân vân.
Bạn được chỉ giáo phải thuộc lòng những đường nét của một bức tranh hay tượng Phật dùng làm đề tài quán, để bạn có thể dễ dàng tưởng tượng phần nào đề mục quán của bạn với hình ảnh thô (thô tướng) mà bạn có được do thấy bằng mắt thịt. Chúng ta nói bạn đã “quen lời chỉ giáo” khi bạn không còn nhớ được hình ảnh này. Đây là hố thứ hai.
Cách chữa trị là sự điều chỉnh thứ năm trong tám pháp - đó là niệm. Niệm cường liệt là cần thiết để duy trì sự tương tục của đề mục thiền quán, hơi giống một chuỗi tràng. Niệm của một người có thể mạnh hay yếu, làm cho người ấy dễ dàng hay khó khăn đạt đến tâm tịnh chỉ Vô Trước nói như sau về niệm:
“Niệm là gì? Đó là một pháp có nhiệm vụ làm cho tâm không quên một vật mà nó đã quen thuộc.”
Nói cách khác, niệm cần thiết phải có ba đức tính. Nó phải phân biệt được đối tượng - nghĩa là trước đấy bạn đã nhìn đối tượng dùng để thiền quán, và làm cho mắt bạn quen thuộc với những đặc điểm của nó. Sau đó khi bạn hướng tâm về những đặc điểm ấy, thì niệm phải có cái đức tính duy trì - nghĩa là bạn không quên những đặc điểm ấy, và nó hiện lại một cách sống động. Cũng như bạn nhớ đồ ăn một cách sống động khi bạn đói. Cuối cùng, niệm có một đức nữa là cái nhiệm vụ nó thực hiện - tâm được làm cho không đi lạc, không phân tán khỏi đối tượng nó hướng đến.
Nếu ba pháp này có mặt, thì bạn sẽ có thể quán tưởng hình dạng của Phật trước khi bạn trong tâm nhãn. Đừng chia trí - hãy duy trì sự dán chặt vào đối tượng quán. Bạn phải tưởng tượng, không làm gì khác.