GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAYPHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY__________________________________________________ ______________________________________
Chúng ta thà chết còn hơn thiền quán Lam-rim! Người ta phí thì giờ xem sách, làm học giả, đọc tụng. Họ đều hụt mất cái cốt tủy! Nói chung ta không biết được mình có được một tái sinh như thế này nữa hay không: và dù có được, cũng sẽ rất khó mà gặp nền giáo lý này, nhất là nền giáo lý tuyệt đối không lỗi lầm như giáo lý của Đấng Chiến thắng thứ hai (sau Phật).
Bởi thế bạn phải thấy mình có thể phát tâm bồ đề, cái nhân để đạt toàn giác, trong khi đang ở trong tái sinh này. Khi bạn đã phát tâm thì điều ấy sẽ lợi cho cả bạn lẫn người khác. Một lần gặp thời đói kém, có người đàn ông và cả nhà ông ta sắp chết đói. Một ngày anh tìm được một miếng thịt. Anh nghĩ, nếu ta chia thịt này cho cả nhà ăn thì không thấm vào đâu, tất cả vẫn đói, ta biết đấy chỉ là giải pháp tạm thời. Chi bằng ta ăn hết phần thịt này để có sức mà đi kiếm thức ăn cho tất cả. Bởi thế người cha ăn hết miếng thịt và đi tìm thực phẩm cho tất cả mọi người. Như vậy, khi bạn thực hành mật điển, hay chỉ nhẩm thần chú “om mani padme hum” - hay khi tham dự một cuộc tranh luận hoặc lễ cúng dường - hãy làm việc ấy kèm với tâm bồ đề.
Khi bạn cảm thấy ước muốn hữu thức mong thành đạt Phật quả vì lợi ích hữu tình, thì tức là bạn phát tâm bồ đề giống như vỏ ngoài một cây mía. Nhưng nếu thêm vào đấy, bạn còn cảm thấy một ước muốn vô thức đạt giác ngộ để lợi lạc bất cứ hữu tình nào bạn gặp, thế là bạn đã phát tâm bồ đề chân thật trong dòng tâm thức của bạn. Bạn đã đi vào đạo lộ Đại thừa về tích lũy và khởi sự ba a tăng kỳ kiếp tích tập hai kho công đức. Bạn sẽ có được vô lượng thiện tính và được cái tên là “Pháp vương tử” và “Bồ tát.”Nếu bạn tu tập sau khi thành tựu tuệ quán này, thì chắc chắn bạn sẽ giác ngộ nhanh chóng dù bạn không qua con đường mật tông.
Sự phát tâm bồ đề có hai loại tùy theo bản chất của nó - loại ước nguyện (phát bồ đề nguyện - DG) và loại dấn thân (phát bồ đề hạnh); có bốn loại tùy theo vị trí của hành giả trên đạo lộ - loại bồ đề tâm thuộc về tin tưởng và loại thuộc phân tích (bốn loại là: thập tín, thập trụ, thập hạnh, và thập hồi hướng - DG); ba loại tùy theo sắc thái phát tâm bồ đề - loại của vua, vân vân; và có 22 loại phát tâm bồ đề. Điều quan trọng là phải biết những trình bày sai khác này (xem Trang hoàng cho Thực Chứng của đức Di Lặc.)
Đến đây chấm dứt chương nói về phát tâm bồ đề nhờ chỉ giáo bảy lớp nhân quả. Bây giờ tôi sẽ bàn về hệ thống luyện tâm theo cách đổi địa vị mình với người. Đây là thuyết của Shàntideva, một vị Pháp vương tử vĩ đại. Mặc dù bạn sẽ phát tâm bồ đề nếu bạn luyện theo cách bảy lớp nhân quả nói trên, chúng ta vẫn bao hàm phương pháp trao đổi mình và người, vì phương pháp này rất hiệu lực. Phái Kadampas tiền kỳ đã sử dụng kỹ thuật này.
Điều mà ta gọi là “luyện tâm” đặc biệt ám chỉ sự đổi địa vị mình với người, cho và nhận.
a-2. Luyện tâm bằng cách đổi địa vị mình với người.
Pháp này rút từ tác phẩm Hành Bồ Tất Hạnh:
Bất cứ ai mong che chở bản thân và người khác,
Hãy đổi địa vị mình với người.
Hãy làm hạnh thánh này trong vòng bí mật!
Nói cách khác, pháp hành này sẽ không làm cho một pháp khí không xứng đáng ưa thích. Từ thời Atìsha cho đến thời Geshe Chaekawa giáo lý này được bảo tồn dưới một mật ấn. Có nhiều bản văn về luyện tâm, như Pháp luyện tâm như chim công chinh phục phục được độc tố; nhưng pháp tốt nhất thuộc loại này là Luyện Tâm Bảy Điểm. Nếu bạn thực tập pháp này, thì còn lợi lạc hơn pháp đã bàn. Bây giờ tôi sẽ dạy pháp này theo một bản sao xưa cũ của bản văn gốc (xem Phụ lục)
Có nhiều cách trình bày bản văn này; tôi sẽ theo hệt phái giảng dạy phát xuất từ Ngulchu Dharmavajra và môn đệ.
Trước hết, tính vĩ dại của các tác giả giáo lý này. Hệ truyền thừa bắt nguồn từ Phật Thích Ca xuống đến Atìsha; Atìsha truyền cho cho Dromtoenpa dưới một mật ấn. Drom giảng dạy Lam-rim cho môn đệ giữa công chúng, nhưng truyền pháp luyện tâm cho Potowa và những người khác trong vòng bí mật. Potowa truyền cho Langri Tangpa và Geshe Sharawa, Sharawa truyền cho đệ tử là geshe Chaekawa tất cả giáo lý về tâm bồ đề. Những giáo lý này được giảng công khai suốt thời đại Chaekawa.
Geshe Chekawa sinh vào một gia đình theo mật phái Nyingma và trở nên một người tinh thông năm minh, vân vân, nhưng ngài vẫn chưa thỏa mãn. Ngài tình cờ gặp tác phẩm của Langri Tangpa nhân đề Luyện Tâm Trong tám câu kệ, đại ý:
Hãy đem lợi lộc và vinh quang cho kẻ khác;
Hãy nhận sự thua thiệt và thất bại về phần mình.
Chaekawa tìm kiếm ý nghĩa câu này, nhưng lúc ấy Langri đã chết. Ngài gặp người kế vị của Langri là Sharawa và yêu cầu vị này chỉ giáo về cách luyện tâm. Nhờ thiền quán ngài dã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức. Chaekawa chi giáo nhiều người bệnh cùi, nhờ pháp thiền quán này mà nhiều người khỏi bệnh. Bởi vậy giáo lý này còn gọi là “Pháp của người cùi.” Chaekawa nghĩ thật rất uổng nếu một nền giáo lý như thế này phải giữ bí mật, nên ngài dạy pháp này giữa công chúng. Ngài viết thành sách nhan đề là Luyện Tâm trong bảy điểm. Tác phẩm này chia giáo lý thành bảy phần. Giáo lý này còn gọi là Tinh Chất Cam Lồ vì nó là giai đoạn cuối của việc luyện tâm, sẽ giúp bạn đạt đến trạng thái bất tử là Phật quả.
Tính vĩ đại của Pháp này có thể thấy được bằng cách tham chiếu lại phần nói về lợi lạc của tâm bồ đề, thế nào là bồ đề tâm như kim cương. Nó cũng có thể xua tan bóng tối của ngã ái, như chỉ một chút tia sáng mặt trời có thể xua tan bóng đêm. Nó có thể xua tan cơn bệnh ngã ái cũng như một chút dược thảo cũng đủ xua tan cơn bệnh. Trong thời đại có đủ năm thứ suy đồi này, khi mà pháp khác không còn hiệu lực, thì cách luyện tâm này sẽ giúp bạn, bạn sẽ không bị phiền hà vì những hoàn cảnh không may. Pháp này có nhiều lợi lạc như thế.
Nó khởi đầu bằng “Đảnh lễ Tâm Đại Bi.” Sự kính lễ này không phải làm đối với đức Thánh Quan Tự Tại, đức Phật đầy bi mẫn: như bậc thầy Chandrakirti kính lễ tâm đại bị mở đầu tác phẩm Thực Hành Trung Đạo, ở đây cũng thế. Bây giờ ta hãy theo dõi bảy phần của thân bài chính về pháp luyện tâm này.

Trả lời với trích dẫn