DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 28/37 ĐầuĐầu ... 182627282930 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 271 tới 280 của 370
  1. #271
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    a-3.2. Cách thành tựu thân trung ấm

    Như sự lắc lư của một chiếc cân, đời sống nhập thế hiện tại của bạn chấm dứt đồng thời với sự bạn mang lấy một hình thể vật lý dẫn đầu cho sự nhập thế mới - điều này ám chỉ bóng ma mường tượng các uẩn trong tái sinh sắp đến của bạn; sự nhập thế sắp được đi trước bằng bóng ma này dù nó nhập vào bất cứ nơi đâu. Nhiều người bảo rằng người chết sống trong cõi trung gian mang hình dạng và y phục mà họ có lúc còn sống, và có những cách để thông tin với họ. Điều này thật sai lầm. Có thể rằng đã có một vài trường hợp như vậy, nhưng đấy không phải là người chết mà là một chúng sinh nào giả dạng người chết ấy để lừa dối những kẻ phàm phu.

    (Pabongka ám chỉ cau chuyện trong tiểu sử của Milarepa về cái chết của thân phụ của một cư sĩ theo đạo Bon)

    Những chúng sinh trong cõi trung gian có đủ tất cả các giác quan; có thần thông có thể làm những hành vi phi thường; không gì có thể cản đường họ ngoại trừ những thánh tích hoặc nơi họ sẽ sinh vào. Những chúng sinh trong cõi trung ấm sắp tái sinh vào Địa ngục có màu sắc như những khúc gỗ đã cháy; những chúng sinh nào sắp sinh là Quỷ đói có màu nước; những chúng sinh sắp biến thành Súc sinh có màu xám tro; những chúng sinh sắp sinh làm Người hay chư Thiên cõi dục có màu vàng ròng. Những chúng sinh sắp trở thành chư Thiên ở sắc giới thì có màu trắng trong cõi trung gian. Không có cõi trung ấm cho những chúng sinh tái sinh vào cõi Vô sắc.

    Trạng thái nhập xác trong cõi trung ấm xuất hiện như một đêm tối đen với những người bất thiện; đối với những người hiền thiện, trạng thái này xuất hiện như một đêm tối có điểm những dải ánh sáng trắng hoặc được thắp sáng dưới ánh trăng.

    Về thọ mạng của chúng sinh ở cõi trung ấm có nhiều thuyết khác nhau, thông thường nói là 7 ngày - độ dài của những ngày này cũng giống như ngày ở trong đời trước đấy. Sau 7 ngày, những chúng sinh trung ấm trải qua một cái chết nhỏ, và họ có thể có đến 7 lần chết như thế trước khi tìm được một chỗ sinh ra.

    a-3.3. Cách nhập thai và sinh ra


    Lấy trường hợp một số người được sinh ra từ bào thai. Sự thụ thai xảy đến giữa tinh cha và huyết mẹ. Hồn ma trong cõi trung ấm thấy cha mẹ giao hợp, cơn giận dữ và sự tham luyến làm cho nó nôn mữa, và nó chỉ thấy những cơ quan sinh dục của cha mẹ. Cơn giận giết chết nó và nó được nhập vào bào thai trong tái sinh kế tiếp.

    Điều này hoàn tất đề mục “Nghĩ về nguồn gốc khổ - những giai đoạn buộc ta vào sinh tử” theo tác phẩm của Tsongkapa là Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ, Con Đường Nhanh và Con Đường Dễ. Bây giờ tôi sẽ bàn tiêu đề này theo 12 phần nhân duyên, cũng được bàn trong tác phẩm của Tsongkapa nhan đề Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ. Những Lam-rim. Con Đường Dễ và Con Đường Nhanh không rõ ràng về đề tài này. Tôi sẽ dạy đề mục này theo tác phẩm Lời Đức Văn Thù, chỉ bàn qua về những tiêu đề của nó.

    Sự đề cập ngắn ngủi trên đây về cách nghĩ đến những giai đoạn ta bị buộc vào sinh tử - nghĩa là nguồn gốc của khổ - đã đủ. Tuy nhiên những người đã nghiên cứu các bản tranh luận cổ điển thì nên nghĩ về điều này qua 12 nhân duyên. Đây là điều tốt nhất cho vài người đặc biệt.

    (Pabongka Rinpoche kể lại một thời, vua Ma Kiệt Đà theo lời khuyên của đức Phật đã giải thích quá trình tái sinh cho vị vua tên là Utrayna bằng cách dùng một hình vẽ bánh xe sinh tử, và vị vua này đã phát sinh niềm chán ngấy sinh tử luân hồi. Ngài cũng kể cho chúng tôi nghe Geshe Puchungwa đã nghiên cứu 12 nhân duyên và giảng dạy Phạm Vi Nhỏ và Phạm Vi Trung Bình theo 12 móc xích này.)

    Bởi vậy bạn nên nghĩ thêm về những lỗi lầm của Tập đế nguồn gốc của khổ, và lỗi lầm của sinh tử nhờ phương tiện 12 móc xích để tăng cường sự chán ngấy của bạn đối với sinh tử. Đức Phật bàn về những móc xích này khi ngài dạy kinh Những Hạt Lúa.

    “Vì cái này có nên cái kia sẽ có. Ví cái này đã sinh nên cái kia sẽ sinh. Cũng vậy vô minh là phần nhân tố phụ thuộc để sinh ra các hành…”

    Om Mani Padme Hum !

  2. #272
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nói cách khác có 12 móc xích duyên như sau.

    a-3.3.1. Vô minh

    Đây là căn nguyên sự xoay vần của chúng ta trên bánh xe sinh tử. Chúng ta không biết làm thế nào để hiểu vô ngã với trí tuệ của mình, do đó ta chấp thủ con người của ta và các hiện tượng bên ngoài, ta cho rằng chúng đều có một bản ngã, chúng có thể được thiết lập do tự tính của chúng. “Vô minh” là cái thấy biết điên đảo, ngược lại với trí tuệ căn bản. Điều này cũng giống như bị mù.

    Có hai hình thái vô mình. Vô minh về nhân quả, và vô minh về chân như.

    a-3.3.2. Hành
    Vô minh khởi động các hành như thể là nghề của nó. Các uẩn xuất hiện trong tái sinh kế tiếp của ta cũng là nhiệm vụ các hành. Như thế, chúng ta bị khởi động bởi vô tình không thấy luật nhân quả, nên tạo những nghiệp phi công đức; hoặc chúng ta được khởi động bởi vô minh không thấy được hình thái hiện hữu của vạn pháp nên chúng ta tạo những phi phước hành hoặc bất động hành. Tất cả loại nghiệp này đều gọi là hành.

    a-3.3.3. Thức

    Ám chỉ hai loại thức: Thức vào thời gian của nhân, và thức vào thời gian của quả báo. Loại thứ nhất là thức theo liền sau bản năng hay khuynh hướng tiềm ẩn của hành, tức là nghiệp. Loại thứ hai là thức theo liền sau sự nhập thai và tái sinh mới.

    Một ví dụ: Giả sử bị kích động bởi vô minh bạn mới giết mạng sống. Khi bạn phạm nghiệp này hay hành này, bản năng hay sự tiềm tàng của nó được in dấu khi nghiệp vừa hoàn tất. Đây là thức vào thời gian của nhân. Do nghiệp này bạn được nhập thai này, tình trạng “thức” của bạn là thức vào thời gian của quả báo.

    Mỗi khi phước hành hay nghiệp đều có thể ném ta vào nhiều tái sinh trong các đọa xứ. Hãy áp dụng cùng những nguyên lý ấy đối với các phước hành hay “phước nghiệp” v.v…

    Những bản năng của nghiệp này đi vào tâm thức cũng giống như dầu thấm vào cát hoặc như mực nơi dấu ấn thấm vào giấy. Tham ái và chấp thủ đều có thể kích động khuynh hướng tiềm tàng này, và khi ấy chúng trở thành đủ sức mạnh để đưa đến tái sinh.

    a-3.3.4. Danh sắc

    Trong trường hợp tái sinh từ bào thai, móc xích “Danh” là bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức. Móc xích “Sắc” là tinh cha, huyết mẹ trong giai đoạn phát triển đầu tiên, trong đó thức đã được đặt vào. Phối hợp hai cái gọi là móc Danh sắc.

    a-3.3.5. Sáu căn
    Khi sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã thành hình, móc xích này chỉ áp dụng cho giai đoạn chưa phân biệt được sự vật mặc dù hiện hữu giác quan và đối tượng (căn, trần, thức) đầy đủ. Các căn vật lý và tâm lý này được nói là hiện hữu từ giai đoạn đầu của bào thai. Lấy ví dụ sự tái sinh bằng biến hóa vào hai cõi dưới là cõi dục và cõi sắc, thì danh sắc và sáu căn xảy ra đồng thời. Ở cõi vô sắc, thì chỉ có “danh” và không có “sắc” hay năm căn vật lý.

    a-3.3.6. Xúc

    Khi sáu căn đã được thành hình và đồng thời có sự tác động hỗ tương giữa căn, trần, thức thì người ta có thể phân biệt được những đối tượng dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Đấy gọi là xúc.

    a-3.3.7. Thọ

    “Xúc” làm duyên cho sự phát triển của một trong ba loại “thọ” hay cảm giác: lạc, khổ, xả. Ví dụ, ta phát sinh cảm giác vui sướng khi gặp đối tượng dễ chịu.

    a-3.3.8. Ái

    Ái nghĩa là mong muốn đừng xa lìa những cảm giác vui. Nó cũng là sự mong muốn xa lìa đau khổ, và bám lấy sự xa lìa ấy. Chúng ta còn khát khao tình trạng “xả” của ta không thối giảm.

    Cảm thọ được xem là nguyên nhân phụ vào sự phát triển của tham ái. Điều này cần hiểu là khi vô minh có mặt, và có xúc làm duyên: chỉ có “thọ” xảy ra lúc ấy mới phát sinh tham ái. Như vậy khi vô minh không có mặt, chư thiên vẫn có thể có cảm giác, nhưng tham ái sẽ không phát sinh.

    a-3.3.9. Thủ

    Khi ái càng mạnh, thì chúng ta ham muốn đối tượng và ràng buộc với nó. Có bốn loài chấp thủ. “Dục thủ” là ràng buộc với các đối tượng giác quan. “Kiến thủ” là ràng buộc với tất cả tà kiến, trừ kiến chấp đồng hóa với ngã với cái khả hoại. “Giới cấm thủ” là bám vào những đạo đức hạ đẳng và những lối hành xử liên hệ đến tà kiến. “Ngã luận thủ” là sự thích thú đối với những quan niệm về thực hữu: căn để là sự thích thú đối với kiến chấp cho rằng ngã chính là 5 uẩn.

    a-3.3.10. Hữu

    Trong quá khứ, “hành” gieo bản năng nghiệp vào tâm thức, Ái và thủ khởi động bản năng và khi ấy nó đủ sức ném ta vào một thân xác trong đời vị lai.

    a-3.3.11. Sinh

    Móc xích này trải từ sự khởi động nói trên, - khi nghiệp trở thành căn bản cho sự tái sinh của ta vào một trong bốn loại sinh - cho đến lúc ta nhập vào bào thai trong tái sinh mới.

    a-3.3.12. Già chết

    Chúng ta nhận móc xích “già chết” theo thứ tự. già là sự chín mùi của các uẩn, sự tuần tự biến đổi tình trạng của chúng. Chết là sự hoại diệt các uẩn, sự chấm dứt vận hành các uẩn.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #273
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi bạn đã được giới thiệu 12 móc xích này và có thể phần biệt từng cái, bạn phải biết cách gom chúng lại thành từng phần. Có 4 phần: phần thúc nhanh, phần thành lập, phần thúc nhanh hậu quả, phần hậu quả hiện rõ.

    Vô minh giống như một người gieo hạt giống. Hành do vô minh khởi động là như hạt giống. Và giống như đất trách nhiệm đó hạt giống được gieo, thức vào thời điểm của nhân có bản năng của nghiệp tích lũy đặt vào nó. Vậy phần là hai rưỡi móc xích đầu: vô minh; hành, và thức ở thời điểm làm nhân - không phải phần kia của thức ở thời điểm làm quả.

    Cũng như hạt giống được nuôi bằng nước, phân, hơi ấm, sự ẩm ướt, ái và thủ khởi động cái nghiệp để phát sinh quả. Như một hạt giống được làm cho có tiềm năng nhờ nước, phân, hơi nóng và ẩm thấp để đâm chồi, cái nghiệp đã được khởi động bởi ái và thủ chắc chắn sẽ thúc nhanh sự thành hình năm uẩn đời sau nhờ móc xích “hữu.” Vậy ái, thủ, hữu là thành phần lập.

    Cũng như hạt giống đâm chồi, móc xích “sinh” - nghĩa là được hoài thai thành hình thể tái sinh mới - là một yếu tố thuộc thành phần hậu quả hiện rõ.

    Năm rưỡi (đúng ra là bốn rưỡi, nếu tính danh - sắc là một - DG) móc xích làm nên phần kết thúc nhanh hậu quả, đó là: thức vào thời điểm làm quả, danh sắc, sáu giác quan, xúc và thọ.

    Già chết là một yếu tố của phần hậu quả hiện rõ. Vậy phần hậu quả hiện rõ gồm có “sinh” và “già chết.”

    Lấy ví dụ sự tái sinh làm một vị trời. Do năng lực vô minh, nghĩa là mù quáng đối với chân như, cái bản năng thuộc nghiệp ta đã tích lũy - cái nghiệp đưa đến tái sinh làm chư thiên - được đặt vào trong thức của ta. Khi ấy ta nghĩ, “Tôi sẽ thích một tái sinh ở cõi trời.” Và khát khao điều này trong lúc cầu nguyện, vân vân: đây là khát ái. Rồi ta đặt nhiều nỗ lực vào khát vọng ấy: đó là thủ. vào lúc chết, hai yếu tố ái, thủ này làm nên cái nghiệp chắc chắn sẽ ném ta vào tái sinh ấy: đây là “hữu”. Vậy, ba yếu tố của phần thúc nhanh và ba yếu tố của phần thành lập - sáu yếu tố tất cả - được đầy đủ trong đời này. Rồi chúng ta tái sinh làm một vị trời; bốn móc - danh sắc, các giác quan, xúc và thọ - là phần thúc nhanh hậu quả; và hai móc - sinh và già chết - là phần quả báo hiện rõ. Đây là cách mà một bộ sậu gồm 12 móc xích được đầy đủ trong hai đời.

    Lấy ví dụ tái sinh vào đọa xứ. Cũng những nguyên tắc ấy áp dụng ở đây: vì mù lòa trước luật nhân quả, chúng ta tích lũy những nghiệp bất thiện, được khởi động do ái và thủ, v.v…

    Không thể nào có một bộ 12 nhân duyên đầy đủ trong vòng một đời dưới năng lực của một nghiệp duy nhất. Chúng ta có thể hoàn tất đủ bộ 12 nhân duyên nhanh nhất cũng phải trong hai đời.

    Cần thời gian lâu hơn khi với ái, thủ ta đã không thể khởi động một vài nghiệp; khi ấy ba yếu tố của phần thúc đẩy nhanh sẽ đầy đủ trong một đời; ba yếu tố của phần thành lập, vào một đời khác; và bốn yếu tố của phần thúc nhanh quả báo, cũng như hai yếu tố của phần quả báo hiện rõ, sẽ được bổ túc trong một đời khác nữa. Một ví dụ: chúng ta tích lũy nghiệp ác để được tái sinh vào đọa xứ, và bản năng đã được gieo trồng. Nhưng vào lúc chết, thầy và bạn gieo những ý tưởng thiện vào trong tâm ta; điều này khởi động cái nghiệp để tái sinh làm người, và kết tiếp ta được sinh làm người. Khi ta chết, ta lại khởi động cái ác nghiệp khi trước do ái và thủ, và rồi ta lại tái sinh vào đọa xứ.

    Trong ví dụ chúng ta có thể có nhiều tái sinh xen vào giữa phần thúc nhanh và phần thành lập, nhưng đấy là những cuộc đời thuộc vào những bộ 12 nhân duyên khác nữa, nên không tính.

    Vậy, để tóm tắt: cách nhanh nhất ta có thể hoàn tất đủ bộ 12 nhân duyên là trong hai đời sống, và chậm nhất là ba đời. Không thể nào nhanh hơn hoặc chậm hơn thế. Mỗi móc xích làm duyên cho móc kế tiếp sinh khởi, cho nên tất cả khổ - tái sinh, già, chết, v.v… - được kinh quá như một chu kỳ. Trong khi ta theo những móc xích kết quả từ một nghiệp duy nhất, ta có thể phát triển nhiều bộ 12 nhân duyên khác trong giai đoạn nguyên nhân của chúng. Già chết là do sinh; hành là do vô minh, vân vân. Như vậy một móc xích này tiếp theo móc xích kia và bởi thế vô minh là cần để trong việc khiến cho bánh xe sinh tử quay tròn.

    Long Thụ nói:

    Hai móc xích phát xuất từ ba

    Bảy móc xích phát xuất từ hai;

    Rồi ba móc xích lại sinh

    Bánh xe sinh tử cứ thế quay mãi.


    Om Mani Padme Hum !

  4. #274
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nói cách khác ba móc xích vọng tưởng (vô minh, ái, thủ) làm phát sinh hai móc xích nghiệp (hành, hữu), và từ hai móc xích này phát sinh bảy móc xích khổ (những móc xích còn lại). Rồi từ bảy móc xích khổ lại phát sinh ba móc xích vọng tưởng v.v…; chu kỳ được lập lại, và bánh xe sinh tử quay mãi không ngừng. Đây là sự quay bánh xe khổ.

    Mười hai nhân duyên có thể được đề cập theo thứ tự khác. Nếu muốn thực hành một con đường để chấm dứt 12 nhân duyên, thì ta ngăn cản “hành” bằng cách đề phòng vô minh; điều này sẽ chấm dứt tất cả đau khổ của già chết.

    Tóm lại, 12 móc xích duyên sinh có thể tóm thành 3 hệ thống nhân quả: Nghiệp, vọng tưởng và khổ. Vô minh, ái, thủ là 3 móc xích của vọng tưởng. Hai móc xích nghiệp là hành và hữu; những móc xích còn lại là 7 móc xích của khổ. Long Thụ nói:

    Thứ nhất, thứ tám, thứ chín là vọng tưởng

    Thứ hai, thứ mười là nghiệp.

    Bảy chi còn lại là khổ.


    Dòng đầu bài kệ nói về 3 móc xích của sự khởi động, dòng kệ thứ hai nói về hai móc xích nghiệp về thân và lời, nghĩa là hành và hữu; dòng thứ ba là những móc xích mà người ta sẽ trải qua.

    Bạn đã phát sinh sự từ bỏ khi do hậu quả của sự thiền quán về nỗi khổ chung quanh của sinh tử và 12 móc xích duyên sinh. Bạn khao khát được giải thoát khỏi luân hồi như một người tù. Khi ấy bạn muốn tu luyện theo con đường đưa đến giải thoát.

    b. Thực thụ xác định bản chất đạo lộ đến giải thoát.

    Có hai phân đoạn (1) loại tái sinh có thể chấm dứt sinh tử (2) loại con đường có thể đưa đến chấm dứt sinh tử.

    b-1. Loại thân vật lý có thể chấm dứt sinh tử.

    Bạn đã nghĩ về những lỗi lầm của sinh tử. Bản chất của sinh tử là hoàn cảnh vô thường và khả hoại, giống như hình ảnh của mặt trăng trong nước bị gió thổi không đứng yên dù trong chốc lát. Hạnh phúc và tài sản trong sinh tử ấp ủ một mối nguy hiểm lớn lao như cái bóng của một con rắn hổ mang có mồng. Bạn có thể thấy rằng bất cứ loại nào trong 5 loại tái sinh đều là một sự hoành hành không gián đoạn của đau khổ. Cũng như người trong ngục hay trong một gian nhà cháy mong muốn thoát ra, bạn sẽ phát sinh những tư tưởng muốn thoát sinh tử. Bạn sẽ tra tầm những nguyên nhân của sinh tử. Có hai nguyên nhân: nghiệp và vọng tưởng. Khi biết điều này bạn sẽ nỗ lực tìm phương cách để đánh bại 2 nguyên nhân ấy.

    Sự tái sinh cần có là tái sinh làm thân người thuận lợi; và bây giờ khi ta đã có được thân người thuận lợi để theo học 3 môn học tăng thượng và những nỗ lực lành mạnh khác, thì ta phải quay lưng với sinh tử. Geshe Potowa nói: “Khi bạn lang thang đã nhiều trong quá khứ, sinh tử không tự đứng lại và nó cũng không tự dừng - chính bạn phải dừng bánh xe sinh tử. Và thời gian để dừng sinh tử chính là hiện tại, khi bạn đã có được thân người thuận lợi.”

    Nói cách khác không có một tái sinh nào tốt hơn là tái sinh này.

    b-2. Loại con đường có thể chấm dứt sinh tử

    Chúng ta cần phải cắt đứt gốc rễ của sinh tử, gốc rễ ấy chính là vô minh, mù lòa với chân như. Hình thức bản năng của sự chấp thủ cái tôi chính là gốc rễ cần được cắt đức, bởi vì khi ta không cắt đứt gốc rễ này mà lại đào luyện những phương pháp giải khác, thì nó chỉ làm cùn nhụt một vài vọng tưởng chứ không thể vĩnh viễn phát huy chúng. Những thiện hành cũng không ăn thua gì.

    Chỉ có những tư tưởng hoàn toàn ngược lại với nó mới có thể chấm dứt chấp thủ bản ngã.

    Trí tuệ hiểu được vô ngã sẽ nhận ra rằng cái tôi không thực hữu: trí tuệ này bởi thế hoàn toàn đối lập với những tư duy chấp thủ cho rằng cái ngã thực có tự tính. Bởi thế bạn cần có trí tuệ hiểu được vô ngã để có thể nhổ tận gốc sự chấp ngã theo bản năng. Khi bạn không có trí tuệ này mà lại nỗ lực làm các phước hành khác, thì điều ấy chỉ tổ tăng cường thêm sự chấp ngã của bạn chứ không thể làm hại đến chấp ngã.

    Muốn phát triển trí tuệ này một cách thích đáng trong dòng tâm thức, bạn cần những điều sau đây. Bạn sẽ không phát triển được trí tuệ ấy nếu không có sự tu tập về tăng thượng định học. Ví dụ bạn cần hai điều khi muốn bổ một thân cây: Một cái rìu thật bén và một cánh tay khỏe mạnh. Nếu cái rìu không được bén thì nói không thể cắt vào trong thân cây. Nếu cánh tay bạn không vững, thì cái rìu sẽ không rơi xuống cùng một chỗ ấy trên thân cây. Hoặc muốn thấy được bức họa trên tường về đêm, bạn phải có một ngọn đèn sáng. Trí tuệ hiểu được vô ngã là giống như cái rìu bén; sự chấp thủ vào một hiện hữu có thật là thân cây cần được chặt, thấy được chính xác hình thái sinh tồn cũng giống như cánh tay khỏe mạnh cầm rìu, hay ngọn đèn tỏa ánh sáng trên sự vật. Muốn phát triển trong dòng tâm thức của bạn sự tịnh chỉ nhất tâm bền bĩ không bị vọng tưởng nội tâm - giống như ngọn đèn dầu không bị lung lay vì gió - thì bạn phải giải thoát tâm khỏi những tán loạn thô phù bên ngoài, nghĩa là bạn phải trước hết tu học tăng thượng giới.

    Để tóm tắt, kinh Phạm Thiên Thỉnh được trích dẫn trong tác phẩm Vô Trước nói:

    Những điều cần có là:

    Một căn bản rất vững

    Hoan hỷ trong một tâm an định và tri kiến bậc thánh

    Điều không nên có là:

    Kiến chấp của kẻ tội lỗi.


    Om Mani Padme Hum !

  5. #275
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nghĩa là muốn có phương thuốc đối trị ngã chấp - tuệ quán đặc biệt, tri kiến như của bậc thánh để liễu tri Tánh không - hình thái hiện hữu chân thật - thì trước hết bạn phải hoàn tất tâm tịnh chỉ. Và nếu bạn không theo tăng thượng giới học, thì bạn sẽ không có những điều kiện cần để phát sinh tâm tịnh chỉ.

    Bức thư của Long Thụ nói:

    Khi tóc hay y phục của bạn

    Thình lình bắt lửa

    Cũng đừng thèm dập tắt:

    Thay vì thế, hãy cố dập tắt tái sinh.

    Không có mục đích nào vĩ đại bằng.

    Đừng thối lui trên con đường

    Đi tìm niết bàn vô cấu an tịnh

    Bằng giới thanh tịnh và trí tuệ thiền định.

    Hãy hoàn tất điều ấy; trong niết bàn không có

    Đất nước lửa gió trời trăng,


    Ba điều chính cần phải thực hành trong Phạm Vi Trung Bình là ba môn tăng thượng, bởi vậy đáng lẽ phải bàn để chúng ở đây nếu tôi không giảng dạy những đề mục thiền thuộc Phạm Vi Lớn. Tuy nhiên đây chỉ là giáo lý thuộc Phạm Vi Trung Bình, là phần có chung của đạo lộ chứ không phải con đường thực thụ của Phạm Vi Trung Bình. Bởi vậy tôi sẽ bàn về hai môn học tăng thượng là tịnh chỉ và trí tuệ, trong phần tâm tịnh chỉ và tuệ quán đặc biệt thuộc Phạm Vi Lớn. như vậy chỉ còn có tăng thượng giới cần phải bàn đến: đay là cách giảng dạy theo truyền thống.

    Bức thư của Long Thụ nói:

    Như những động vật và bất động

    Đều được đất nâng đỡ,

    Cũng thế, giới được gọi là

    Nền tảng của tất cả thiện pháp.


    Nói cách khác, giới là cốt tử vì là căn bản của mọi đức tính. Đó là giáo lý căn bản của đức Phật. Giới là lợi lạc nhất nếu người ta giữ giới, nhưng nếu không giữ giới thì có những lỗi lầm to lớn; lợi lạc chỉ là do sự giữ giới.

    Điều căn bản quyết định giáo lý của Phật có tiếp tục tồn tại hay không chính là Giới Biệt Giải Thoát có còn được tuân giữ hay không. Nếu không còn những người tu thọ cụ túc giới, thì bất cứ giáo lý nào còn tồn tại cũng vô hiệu, mặc dù có thể vẫn còn những người mang tri kiến chẳng hạn. kinh Biệt Giải Thoát nói: “Khi Như Lai nhập Niết bàn, các người lấy giới làm thầy.” Nghĩa là bạn phải cảm thấy giới luật ở trong dòng tâm thức của bạn thay thế cho bậc đạo sư của chúng ta, bạn nên yêu mến giới luật và giữ giới.

    Trong ba môn học tăng thượng, thì những người sơ học chúng ta khó thực hành ngay tuệ và định; nhưng giới Biệt Giải Thoát trong dòng tâm thức chúng ta là một tuệ quán đi sâu vào giáo lý, mà chắc chắn chúng ta có thể thực hành, mà chắc chắn chúng ta có trong dòng tâm thức. Đây là lý do tại sao người ta nói giáo lý Phật tồn tại hay không là tùy thuộc vào tăng. Lại nữa giới Biệt Giải Thoát là căn bản, là trung gian của hai loại giới cao hơn.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #276
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi nói “những người bảo tồn giáo lý,” chúng ta không ám chỉ pháp sư ngồi trên tòa cao. Bạn là một người bảo trì nền giáo lý nếu bạn tuân giữ giới luật mà bạn có trong dòng tâm thức. Nếu bạn khảo cứu và thiền quán nền giáo pháp được truyền thừa là bạn bảo trì chánh pháp được truyền thừa. Nếu bạn giữ giới thanh tịnh, bạn là người bảo trì tuệ giác thâm nhập giáo lý.

    Trong 3 loại giới, chúng ta chắc chắn có thể thực hành giới Biệt giải Thoát. Một bản Kinh nói: “Tỷ kheo giữ giới thì sáng chói” và: “bất cứ nơi đâu có một tỷ kheo tuân giữ giới luật, nơi ấy có hào quang, có ánh sáng. Ta sẽ làm cho nơi ấy không bị trống rỗng; một nơi như thế sẽ không khiến cho ta lo lắng…” Đây là một điều cốt yếu.

    Xứ Tây Tạng chúng ta, miền đất núi tuyết, có những đặc điểm không tìm thấy ở các xứ khác và nguồn gốc của nền hạnh phúc dài hạn của chúng ta là giáo lý của Phật. Sự kiện những giáo lý này còn thịnh hành không phải do ngôi nhà chúng ta, hay dân cư, hay những vật trang hoàng thuộc về tôn giáo; mà do giới Biệt Giải Thoát - gốc rễ của giáo lý. Nếu chúng ta không giữ giới một cách cẩn thận thì điều ấy chứng tỏ rằng giới đã diệt mất, mặc dù bên ngoài giáo lý ấy vẫn lan tràn như đất và đá.

    Kinh Tam Muội Vương nói:

    Người ta có thể với tâm thanh tịnh

    Cúng dường mười triệu đức Phật.

    Đồ ăn thức uống, bảo cái

    Tràng phan và những dãy đèn

    Trong vô số kiếp

    Nhiều như cát sông Hằng

    Nhưng vào thời mạt pháp

    Khi diệu pháp sắp diệt

    Ai thực hành giới dù chỉ một ngày đêm

    Sẽ được nhiều công đức hơn trên.


    Nói cách khác, trong thời đạy suy đồi thì giữ giới có nhiều công đức hơn là liên tục cúng dường ngày đêm cho chư Phật trong ba đời. Trong cõi người đau buồn này, thì một ngày giữ giới trong giáo lý của đức đạo sư Thích Ca Mâu Ni còn nhiều công đức hơn là nhiều kiếp giữ giới cũng lợi lạc hơn là ở đầu thời kiếp, giữ trọn vẹn tất cả giới căn bản; và giữ một giới vào thời mạt pháp còn có công đức hơn cúng dường nhiều Phật trong hàng chục triệu kiếp.

    Mỗi nữa tháng chúng ta được một vị tỷ kheo đọc đoạn “Những người nào còn giữ giới sẽ được gặp chư Phật trong tương lai…” vị thầy làm việc này không phải để thi đậu, không phải ông đang lập lại đoạn ấy nhiều lần theo yêu cầu v.v… ông ấy đang làm việc ấy để kết thúc giục chúng ta nhớ lại.

    Hãy nghĩ xem giữ giới có lợi gì. Mặc dù bạn tụng: “Mong cho tôi làm sáng chói tâm điểm của nền giáo lý lâu dài” hoặc “Mong cho nền giáo lý Đạo sư lan rộng,” nhưng trước hết trái tim của nền giáo lý phải sinh động ngay trong dòng tâm thức của riêng bạn.

    Khi bạn không giữ giới, thì như kinh nói:

    Đối với vài người, giới có nghĩa là hạnh phúc

    Đối với vài người khác, giới có nghĩa là đau khổ.

    Người nào giữ giới thì sẽ hạnh phúc

    Người nào phạm luật lỏng lẻo thì đau khổ.


    Và kinh Giới Thanh Tịnh nói:

    “Này các tỳ kheo chẳng thà bỏ thân mạng mà chết, không nên thối đạo hay phá hỏng giới luật của ngươi. Tại sao? Nếu người tự bỏ mạng sống và chết đi, thì chỉ đời này của ngươi chấm dứt mà thôi. Nhưng nếu giới ngươi thối đọa hay bị phá hỏng, thì ngươi đã từ bỏ hạnh phúc trong hàng chục triệu kiếp, người sẽ mất chân đứng và phải kinh quá một sự sụp đổ to lớn.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #277
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bạn sẽ trải qua đau khổ trong trăm ngàn kiếp tái sinh. Luật nói:

    Người nào xem nhẹ giáo lý của đấng từ bi

    Hay tách rời giới luật

    Sẽ bị sa vào năng lực của khổ

    Cũng như vườn xoài sẽ hư hoại

    Khi tre bị đốn hết

    Khi một người bất tuân lệnh vua

    Họ có thể không bị trừng phạt

    Nhưng khi họ làm quấy và phạm giơi của Phật dạy

    Họ sẽ thành một con thú

    Như đã xảy đến cho rồng Elavarna.


    Trong đời này nếu bạn bất tuân lệnh của một ông vua có thế lực thì có thể bạn bị phạt có khi không. Nhưng nếu bạn vi phạm những giới luật mà đấng đạo sư từ mẫn đã đạt ra, thì bạn phải trải qua sự trừng phạt sau khi bạn chết như đã xảy ra như Elervana. Elervana chỉ có phạm một tiểu giới mà bị tái sinh làm một con rồng. Khi chúng ta bất chấp nhiều giới trọng, giới khinh và những giới phụ thuộc, thì không biết tái sinh kế tiếp của ta sẽ như thế nào?

    Mặc dù chúng ta có thể chưa học nhiều về nền diệu pháp tối thượng sâu xa, song nếu chúng ta tuân giữ giới luật sa di hay tỷ kheo một cách nghiêm chỉnh trong dòng tâm thức thì chúng ta sẽ là những phần tử tăng già, chúng ta sẽ là những người bảo trì nền giáo lý. Không riêng chỉ sa di và tỷ kheo giữ giới, mà những cư sĩ thế tục cũng có thể giữ giới một ngày. Những điều ích lợi trong việc làm này được nói rõ trong những câu chuyện trong Truyền thừa Luật Tạng: Kinh Hiền Ngu v.v…

    Bạn chỉ nên thọ những giới mà bạn nghĩ là mình có thể giữ được, như giới Bát quan trai, năm giới, bốn giới, ba giới, hay chỉ một giới. Ngay cả những người đã đi tu cũng nên giữ giới đại thừa một ngày, càng thường xuyên càng tốt; đấy chỉ là những giới trong một ngày nên bạn có thể giữ được một cách trọn vẹn.

    Chúng ta luôn luôn tự cho là mình học ba môn học tăng thượng, nhưng chúng ta chỉ có trong dòng tâm thức hình ảnh mờ nhạt của Định và Tuệ mà thôi. Nhưng về Giới thì chúng ta có thể thật sự giữ giới Biệt Giải thoát, hơn thế chúng ta cần nên cố gắng làm việc này. Muốn giữ giới chúng ta phải đóng các cửa dẫn đến sự phạm giới. Có bốn cánh cửa như thế.

    Cửa thứ nhất đưa đên sự phạm giới là vô minh. Nếu bạn không biết điều căn bản gì bạn phải giữ thì bạn sẽ không biết là bạn có phá giới hay không. Bởi thế muốn đóng cánh cửa này, bạn cần biết rõ. Hãy tham chiếu những bản văn cổ về luật tạng, những bài kệ tóm tắt các giới luật, những lời khuyên về ba thực hành căn bản thuộc luật tạng v.v… Ít nhất bạn cũng nên biết bảng liệt kê những học giới cần phải theo.

    Sự bất kính cũng là một cánh cửa khác dẫn đến phạm giới. Bạn phải kính trọng giáo thọ sư và những bạn lành có hành vi phù hợp với pháp. Hơn nữa bạn nên có thái độ rằng giới luật trong dòng tâm thức của mình thay thế cho bậc đạo sư là phải, nên cần phải được tôn trọng. Đừng thờ ơ với giới luật, vì giới cũng như một thay thế cho bậc thầy của chúng ta sau khi ngài nhập Niết bàn.

    Một cánh cửa khác đưa đến sự phạm giới là Vọng Tưởng Lớn nhất. Sự phạm giới theo liền bất cứ vọng tưởng nào lớn nhất trong ba là tham sân si. Nếu đàn áp kẻ thù, trước hết bạn phải hàng phục kẻ thù mạnh nhất - một viên tướng, anh hùng v.v…, cũng tương tự, bạn phải đối trị những vọng tưởng trong dòng tâm thức của mình. Khi những vọng tưởng lớn nhất của bạn là tham ái chẳng hạn thì hãy thiền quán về sự bất tịnh của thân xác: Xem nó như một túi đựng đầy đồ dơ; và phát triển thái độ nhìn nó dưới khía cạnh đầy máu, phình trương, bị sâu ăn, nó sẽ thành một bộ xương, v.v.. Để đối trị thù hận hãy thiền quán về từ bi. Để đối trị kiêu mạn, hãy nghĩ về những nỗi khổ trong sinh tử như già chết, nỗi bất trắc, sự liên tục lên voi xuống chó hoặc nghĩ về sự phân loại đầy đủ các yếu tố trong cơ thể. Hãy quán tưởng rằng nếu có nhiều vật trong thân thể bạn mà về chính nó bạn không biết gì cả như các uẩn, các giác quan, sự tác động giữa các cơ quan năng và cơ thể của các bạn v.v… - thì có bao nhiêu điều khác nữa bạn không biết. Đối trị si ám là thiền quán về duyên sinh; thiền quán về tánh không là cách thông thường để đối trị vọng tưởng.

    Sự buông lung là một cánh cửa đưa đến phạm giới: bạn cần phải có chánh niệm không quên điều chỉnh lối hành xử vào một thời khắc trong ngày khi đi, ngồi, ngủ, ăn uống v.v… Thỉnh thoảng hãy kiểm lại xem thân lời ý của mình có bị hoen ố vì tà hạnh, có phạm giới hay không.

    Bạn cần phải đóng những cánh cửa đưa đến tà hạnh hoặc đưa đến sự phạm giới: hãy làm điều này nhờ chánh niệm, tinh tấn, tàm quý. Nhưng thỉnh thoảng bạn vẫn có sự hoen ố vì những vi phạm, bởi vậy phải tham dự những lễ tịnh hóa v.v… thường xuyên để sám hối. Văn học cổ về luật tạng nói rằng bạn phải sám hối những tội nhỏ bằng ba việc: Ngồi ở chỗ sau cùng trong lễ tịnh hóa, tỏ sự kính trọng đối với những thành phần khác trong tăng đoàn, và tạm thời bị trục xuất khỏi nơi hành lễ. Tuy nhiên Ensapa và những đệ tử nói rằng người ta có thể tịnh hóa sự vi phạm những giới phụ và các tiểu giới nếu đủ sự hối hận và thực hành đầy đủ sự tự chế.

    Om Mani Padme Hum !

  8. #278
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Những bậc thầy của chúng ta như Atìsha và Tsongkapa hiện thân của Đức Văn Thù và những đệ tử của các ngài đã từng đề phòng không để cho bất cứ giới nào mình đã thọ bị ô nhiễm vì tà hạnh. Chúng ta không thể giữ giới nghiêm túc đến mức ấy, và cũng không thể thực hành sự tự chế đến mức ấy, nhưng chúng ta có thể giữ bốn giới căn bản của cư sĩ, đồng thời từ bỏ rượu và giữ gìn những giới ấy như giữ chính tròng con mắt của mình.

    Vì bạn thọ giới Biệt giải thoát trước hòa thượng, thầy truyền giới và tăng già nên bạn phải sám hối bất cứ sự vi phạm nào của bạn trước mặt chúng tăng.

    Đây là lý do tại sao, khi bạn sám hối một mình thì bạn chỉ có thể sám hối tội lõi mà không thể tịnh hóa sự phạm giới, nên không lợi lạc bao nhiêu. Đừng coi thường những tiểu giới: nếu bạn không thể súc miệng sau bữa ăn, hoặc mang giày lúc không nên mang, hoặc đắp thượng y không đúng cách, thì làm sao bạn có thể giữ những giới khác? Những người tu sống thiếu uy nghi thì dù không phạm giới trọng hoặc vài giới phụ, họ vẫn làm hại cho tín tâm của người đời đối với Phật pháp. Bạn nên làm những lễ sám càng thường xuyên càng tốt, để sám hối các sự vi phạm những tiểu giới của bạn.

    Khi bạn sửa soạn một bữa ăn trưa, hay pha trà, vân vân, bạn cần có sẵn một số vật dụng như bơ, muối, thịt, vân vân. Cũng vậy, muốn thành tựu sự tái sinh mà ta khát khao nhất trong những đời sau, thì thật không phải bạn chỉ cần thực hành một vài điều như giữ giới, bố thí mà đủ. Ngay cả những người đã xuất gia cũng cần thực hành bố thí, vân vân, ngoài sự giữ giới cho thanh tịnh.

    Một số người tuyên bố: “Những kỷ luật của giới Biệt giải thoát thuộc về những người hạ căn: bởi thế những người thượng căn hoặc có căn cơ sắt bén thì không cần bị trói buộc vì những giới điều như vậy. Con đường mật tông là con đường nhanh và đã đủ cho những người này, vì con đường ấy xem ba độc như một phần của đạo lộ.” Họ không cho giới luật có giá trị gì, và hành động một cách liều lĩnh. Nhưng dù bạn theo mật tông và đã thọ giới Biệt giải thoát, thì bạn cần phải giữ giới thanh tịnh. Kinh Subahu thỉnh vấn về mật điển có nói:

    Ta đấng Chiến thắng, đã dạy giới Biệt Giải thoát

    Đừng bỏ thanh tịnh giới ấy.

    Hỡi các cư sĩ mật tông, hãy bỏ tướng và nghi lễ (của tăng)

    Nhưng hãy thực hành tất cả những gì còn lại…


    Mật điển gốc của Văn Thù nói:

    Đức Thích Ca Mâu Ni không dạy rằng

    Những kẻ giới luật lỏng lẻo

    Sẽ thành công về mật điển.

    Đấy không phải con đường

    Dẫn đến thành Niết bàn.

    Làm sao những kẻ phàm phu xấu xa ấy

    Thành công được về mật điển?

    Làm sao những kẻ thiếu đạo đức

    Có thể lên thượng giới?

    Chúng sẽ không có hạnh phúc tối thượng.

    Vậy làm sao người ta có thể nói

    Chúng thành công về mật điển do Phật nói ra?


    Có một số người hoàn toàn không có sự từ bỏ nào cả, cũng không có tâm bồ đề hay chánh kiến nào; vậy mà họ trải qua suốt đời thiền quán về sự vận hành có ý thức của tâm (xem Ngày Hai Mươi Hai). Điều này là một nỗ lực vô ích; may phước lắm thì nó cũng chỉ có thể thành bất động nghiệp.

    (Khi ấy Rinpoche ôn lại những đề tài trên)

    Om Mani Padme Hum !

  9. #279
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN NĂM

    PHẠM VI LỚN


    NGÀY MƯỜI SÁU

    Sau phần đọc truyền thống bản kinh văn cho ngày hôm nay, Kyabje Pabongka Rinpoche bảo làm thế nào ta nên điều chỉnh động lực tu tập của mình. Ngài nhấn mạnh ta nên thêm sự phát tâm Bồ đề ngoài sự phát nguyện từ bỏ, trích dẫn lời Tsongkapa vua Pháp của ba cõi: “Khi bạn đã phát triển tâm Bồ đề thuần tịnh cũng như tâm từ bỏ…” Ngài duyệt qua những đề tài đã bàn, và ôn lại phần tài liệu dưới tiêu đề “Xác Định Bản Chất Con Đường Đến Giải Thoát.”

    Cái gì làm bạn xoay vần mãi trong bánh xe sinh tử? Đây là nghiệp, và nghiệp ấy được phát triển nhờ vọng tưởng. Vô minh là vọng tưởng căn bản, nên chính vô minh sản xuất nghiệp. Muốn nhổ gốc vô minh bạn phải thực hành tăng thượng tuệ học. Bạn phải chuẩn bị cho việc này bằng sự học tăng thượng định và tăng thượng giới; đấy là lý do nói rằng giới là căn bản của tất cả mọi đức tính.

    Khi bạn đang còn phải đối trị vọng tưởng thì phải để cho vọng tưởng phát sinh rồi đối trị nó sau khi nhận diện ra nó. Việc này cốt yếu là làm sao cho cuối cùng bạn có thể nhận diện được vọng tưởng ngay cả lúc bạn đang tán tâm.

    2.3. LUYỆN TÂM TRONG PHẠM VI LỚN CỦA ĐẠO LỘ

    Có ba tiêu đề (1) dạy rằng bồ đề tâm là cửa ngõ duy nhất vào Đại thừa, cũng như dạy những lợi ích của bồ đề tâm; (2) làm thế nào để phát tâm bồ đề; (3) làm thế nào để khởi sự tu hành sau khi phát tâm bồ đề.

    2.3.1. BỒ ĐỀ TÂM CỬA NGÕ DUY NHẤT CỦA ĐẠO LỘ; NHỮNG LỢI ÍCH CỦA BỒ ĐỀ TÂM

    Trong những chương trên nói về Phạm Vi Nhỏ và Trung Bình, bạn đã được kích động để từ bỏ. Khi bạn đặt nỗ lực chính của mình vào ba môn học tăng thượng thì bạn chỉ có thành tựu được trạng thái giải thoát cho riêng mình, và chỉ chấm dứt được sinh tử riêng mình. Điều này chưa đủ tốt lành: bạn mới chỉ được một phần tự lợi và lợi tha, vì bạn chưa từ bỏ tất cả những gì cần phải từ bỏ và cũng chưa đạt đến tất cả những đức tính cần đạt. Về sau, bạn còn phải vào Đại thừa ở mức căn bản nhất. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã nói:

    Luôn luôn từ bỏ nhị thừa

    Không thể làm lợi ích cho thế gian

    Và đi vào Cỗ xe Thiến thắng

    Giáo lý đầy từ mẫn

    Mà bản chất chính là lợi tha.

    Geshe Potowa nói:

    Đừng quay về lối cũ trên đường dài!

    Hãy đi ngay từ đầu vào Đại thừa đạo.


    Điều ấy cũng như phải qua sông hai lần. Nhưng còn hơn thế nữa. Những bậc la hán kinh quá một hỉ lạc bất khả tư nghì khi họ nhập vào cõi thanh tịnh đến nỗi họ ở mãi trong định an chỉ ấy trong nhiều kiếp không bao giờ muốn từ bỏ nó. Trong lúc ấy, có người đã từng sống ở địa ngục có thể đạt được thân người thuận lợi, đi vào đạo lộ đại thừa và dùng cùng một số lượng thời gian ấy để giác ngộ. Như vậy những vị La hán tự đặt mình cách xa một khoảng rất lớn với quả vị Phật. Giả sử có người đã học Đại thừa, phát sinh tâm ưa thích, nhưng lại bị tái sinh vào Địa ngục vì có tà kiến. Một người như vậy sẽ thành Phật mau lẹ hơn một người lúc đầu có khuynh hướng Đại thừa, nhưng về sau lại đi vào đạo lộ Tiểu thừa rồi chứng A la hán quả. Vậy tốt hơn nên làm hạng người thứ nhất.

    Ví dụ, khi bậc thanh văn Ca Diếp đang giảng dạy về Pháp Tiểu thừa, có sáu mươi tỷ kheo đáng lẽ sẽ đắc quả A la hán, nhưng Đức Văn Thù liền đi đến nơi họ và dạy cho họ pháp Đại thừa. Giáo lý này quá sức họ, họ phát sinh tà kiến và rơi vào địa ngục. Ca Diếp hỏi đấng Đạo sư chúng ta về việc ấy, và Phật trả lời: “Đấy là phương tiện khéo của Văn Thù! Thật là một giáo lý tuyệt hảo.”

    Cũng thế, khi chư Phật lạy các vị A la hán thuộc các đạo lộ Thanh văn và Duyên giác ra khỏi định an chỉ đầy hỉ lạc của họ, họ không nỗ lực phát triển những đức như bồ đề tâm trong dòng tâm thức vì họ đã quen thuộc với hỷ lạc của trạng thái an chỉ. Dù nổ lực, họ cũng khó thấy lòng bi mẫn, vân vân, vì họ đã thoát khỏi nỗi khổ riêng của họ. Hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nói: “Đấng đạo sư đã dạy về đạo lộ Đại thừa và quả báo Đại thừa. Những điều này thực kỳ diệu, nhưng chúng ta giống như những khúc gỗ đang cháy: chúng ta đã không thể làm nhiều hơn. “Nhưng hãy để ý: điều này không thực áp dụng cho những người như bậc thánh Xá Lợi Phất, vì đấy là những hóa thân của chư Phật dưới dạng Thanh văn. Lời nói này ám chỉ những hạng Thanh văn thực thụ. Những người quả có chướng ngại lớn cho sự đắc quảvô thượng bồ đề.

    Bởi thế, khi ta đã đạt vài tuệ giác đi sâu vào sự từ bỏ, thì phải mau mau quyết định bước vào đạo lộ đại thừa. Chúng ta luyện tâm theo một phần của đạo lộ chung với Phạm Vi Trung Bình cố để phát triển sự từ bỏ trong dòng tâm thức, nhưng không thực sự để đi con đường của Phạm Vi Trung Bình. Luyện tâm bồ đề phù hợp với chương nói về Phạm Vi Lớn mới là phần chính của con đường tu tập; các Phạm Vi Nhỏ và Trung bình chỉ là một phần dẫn nhập, một bổ túc cho phận sự tổng quát của một bồ tát.

    Vì việc đầu tiên phải làm trong sự khảo cứu đạo lộ thuộc Phạm Vi Lớn là hoan hỉ, nên truyền thống khẩu quyết trước hết bàn những lợi lạc của bồ đề tâm. Sau đó là cách những lợi lạc ấy được đề cập trong tác phẩm Lời Đức Văn Thù. Tôi sẽ nói về những lợi lạc ấy dưới mười đề mục: (1) cách duy nhất để vào Đại thừa là phát tâm bồ đề; (2) bạn được cái tên là “con của chư Phật,” (3) bạn sáng hơn cả Thanh văn và Độc giác; (4) bạn trở thành đối tượng cúng dường tối thượng; (5) bạn dễ dàng tích lũy một số lượng công đức khổng lồ; (6) bạn nhanh chóng tịnh hóa được tội lỗi và chướng ngại; (7) bạn thành tựu được bất cứ gì bạn muốn; (8) bạn không ngán vì những điều hại và chướng ngại; (9) không bao lâu bạn sẽ hoàn tất trọn vẹn con đường và những địa vị; (10) bạn trở thành một suối nguồn bất tận của mọi hạnh phúc cho các hữu tình.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #280
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
    __________________________________________________ ______________________________________


    a. Con đường duy nhất để vào Đại thừa là Phát Bồ Đề tâm.

    Điều quyết định bạn đã vào hàng ngũ Đại thừa hay chưa, là bạn đã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức bạn hay chưa. Tsongkapa nói:

    “Pháp Đại thừa không mà thôi chưa đủ - con người phải thuộc vào Đại thừa. Bạn trở thành nột người đại thừa bằng cách có tâm bồ đề. Nếu bạn chỉ có hiểu về bồ đề tâm, thì bạn chưa phải là một người đại thừa cho lắm.”

    Nếu bạn không có bồ đề tâm trong dòng tâm thức mà bạn lại tu tập chẳng hạn, các giai đoạn phát sinh và thành tựu trong mật điển Guhyasamàja, vua các mật điển, thì - ngoài cái sự nó không phải là nhân cho sự đạt giác ngộ - bạn còn không thể khởi tu con đường tích lũy công đức của Đại thừa. Và ngoài ra, một sự tu tập như thế lại còn không phải là một pháp Đại thừa nữa. Nhưng nếu bạn có tâm bồ đề, thì ngay cả việc tụng câu thần chú Om mani padme hum cũng là pháp đại thừa và là nhân cho sự giác ngộ của bạn. Long Thụ nói:

    Nếu bạn ham thích vô thượng bồ đề

    Cho bản thân và cho thế gian,

    Thì hãy biết gốc rễ nó là một tâm bồ đề

    Kiên cố như núi Tu di, vua các ngọn núi.


    Nếu bạn không có tâm ấy, thì thiền định của bạn về giai đoạn phát sinh trong các mật điển cũng giống như nhìn vào một ngôi nhà của chư Thiên trong đồ hình; còn về những thiền định của bạn về giai đoạn hoàn tất, thì có câu: “Thở vào, giữ nó, đuổi nó ra…” Nói cách khác, những thực tập về luồng khí lực, v.v.. như thế cũng không tốt gì hơn thụt ống bể!

    Tính nhanh chóng độc nhất của các mật điển là ở sự kiện nó làm tăng trưởng tâm bồ đề nhiều. Jangkya Roelpai Dorje nói:

    “Tôi đã học Pháp với Purchog Ngagwang Jampa. Ngay cả khi Lama Jampa cho một pháp quán đảnh chính yếu, ngài cũng chỉ nói về Lam-rim trong phần giải thích pháp quán đảnh. Nếu người nào khác thấy việc này, họ sẽ cho rằng Lama Jampa không thể nói về các mật điển, nhưng kỳ thật lời ngài nói xuất phát từ sự liễu tri của ngài về toàn bộ yếu điểm của con đường.”

    Một hành giả mật điển Hevajra không có tâm bồ đề đã đạt quả Dự lưu. Atìsha rất ngạc nhiên khi nghe điều này và nói: “Điều ấy chứng tỏ ông ta đã không có tâm bồ đề. Càng có nhiều người hơn đã thiền quán về Hevajra sẽ xuống địa ngục!” Tuy nhiên hành giả ấy đã làm khá tốt vì có nhiều người hơn thực hành phép tụng chú của nhiều vị thần phẫn nộ trong khi họ thiếu tâm bồ đề; họ đã tái sinh làm những ác ma hoặc vào địa ngục. Có câu chuyện về vị thần địa phương Chushur. Trước kia ông là một người làm những kỳ nhập thất lớn, nhưng về sau tái sinh làm một vị thổ thần. Nếu vị hành giả Hevajra đã đắc quả Dự lưu mà có tâm bồ đề, thì ông ta đã đạt giác ngộ ngay trong đời này. Thay vì thế, ông chỉ đắc một quả báo Tiểu thừa và không có một chút nhân nào để giác ngộ; giai do chỉ vì ông thiếu bồ đề tâm. Bởi thế bồ đề tâm là điều mà ta có thể gọi là “Pháp sâu xa.”

    Tôi đã kể cho các bạn nghe những chuyện tương tự, như câu chuyện Bà la môn Chanakya, hoặc chuyện về hành giả Ấn Độ người thực hành mật điển Yamàntaka mà sau tái sinh làm một ác quỷ đi đến Tây Tạng chỉ để bị Atìsha cho ăn bánh lễ rồi đuổi đi. Chúng ta cũng có câu chuyện về hành giả mật điển Yamàntaka ở Paenpo tái sinh làm ngạ quỷ có hình thù giống vị thần ấy và lai vãng một lễ cúng đốt đồ ăn cho người chết tại nhà của thí chủ ông ta trước kia.

    Ngày nay, nhiều người xem trọng những chuyện như trông thấy được chư thiên, có thiên nhãn hoặc những thần thông khác; nhưng nếu không có tâm bồ đề thì bạn vẫn có thể đi xuống các đọa xứ như chơi, và việc có thiên nhãn hay thần thông cũng không có ích gì lúc ấy. Khi bạn có tâm bồ đề thì có thể bạn không làm nhiều nỗ lực trong các việc khác, nhưng bạn vẫn có được gốc rễ của Pháp Đại thừa. Bất kể đề tài nào, dù thuộc kinh điển hay mật điển, là đại thừa hay không phải đại thừa, đều tùy thuộc vào sự kiện bạn có tâm bồ đề hay không. Nếu bạn đã có tâm bồ đề, thì dù chỉ cho con vật một nạm bột lúa mạch cũng sẽ là một cái nhân góp phần vào sự đạt toàn giác của bạn. Điều này cũng áp dụng cho mọi hoạt động hàng ngày mà bình thường chỉ có tính chất vô thưởng vô phạt. Những đại bồ tát còn có thể chuyển điều phi phước hành thành ra phước hành vì họ làm mọi sự kèm với tâm bồ đề.

    Khi bạn không có tâm bồ đề mà gặp hoàn cảnh thuận tiện để tu tập trí tuệ liễu tri tánh không, thì hoàn cảnh ấy chỉ tác động như một cái nhân cho một trong ba loại giác ngộ của Thanh văn, Duyên giác hoặc Bồ tát; vì trí tuệ ấy như một bà mẹ. Nhưng khi bạn có tâm bồ đề, thì hoàn cảnh ấy sẽ tác động như cái nhân cho bạn đạt vô thượng bồ đề, thì hoàn cảnh ấy sẽ tác động như cái nhân cho bạn đạt vô thượng bồ đề mà thôi. Bởi thế bồ đề tâm như một người cha. Đấy là lý do gọi trí tuệ là “mẹ.”

    Tóm lại: trừ phi bạn tuyệt đối không khát khao giác ngộ thì thôi, ngoài ra tất cả mọi người tu hành đều nên bấy bồ đề tâm làm pháp tu căn bản. Tất cả cái gì có giá trị - như những đức tính trong bất cứ thừa nào trong ba thừa - cuối cùng đều phát xuất từ bồ đề tâm. Nếu có ai hỏi pháp tu căn bản chư thiên ta là gì, ta có thể đáp, tôi tụng thần chú Hayagrìva, Yamàntaka, hoặc Kim cương thủ, nhưng kỳ thật phần đông chúng ta thường đã lấy ba độc làm pháp tu căn bản. Atìsha là một học giả về tất cả pháp ấy, mà ngài vẫn chưa thỏa mãn. Ngài vượt biển chịu nhiều gian nan trong mười ba tháng rồng để thụ giáo toàn triệt về bồ đề tâm với bậc thầy Suvarnadvìpi, và lấy bồ đề tâm làm pháp tu căn bản của ngài. Ngài kính trọng bậc thầy đã chỉ giáo cho ngài về bồ đề tâm hơn bất cứ thầy nào khác. Như Suvarnadvìpi là một người thuộc phái Duy thức (chittamatrin) nên tri kiến của ông về Tánh không không bằng Atìsha.

    Vì lý do đó ta phải xem coi ta có thể phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức ta không. Không có một đời tái sinh nào tốt để phát tâm bồ đề hơn là trong đời hiện tại này. Không có chỉ giáo về Pháp nào tốt hơn để cho ta đào luyện tâm bồ đề hơn pháp này. Tức Lam-rim. Khi xét những điều ấy, thì ta thấy thật vô cùng đáng tiếc nêu không làm gì để phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức chúng ta. Khắp nơi có những người dùng suốt đời để tu tập những chuyện khó khăn như là ăn sỏi đá. Họ có thể tự hào là những hành giả chọn lọc, nhưng họ đã đi lạc ra khỏi con đường đưa đến toàn giác, vì họ không xem bồ đề tâm ra cái gì. Chuyện này thật quá thông thường.

    Chúng ta phải xem ta có nghĩ rằng mình có thể thực thụ phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức của mình hay không. Nếu không được như vậy thì chúng ta phải xem ta có thể được một vài kinh nghiệm gượng ép về tâm bồ đề, hoặc là xem chúng ta có được một chút tri kiến ở mức độ thấp về tâm bồ đề không. Đây là lý do người ta bảo rằng nếu ta không theo đuổi điều này như một đề tài thiền quán đặc biệt thì bao nhiều việc thiền định hay tụng đọc thần chú mà ta cố thực hiện sẽ chỉ là nỗ lực vô bổ. Thật đáng tiếc làm sao.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Lời za patrul rinpoche !
    Gửi bởi hoamacco trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 183
    Bài cuối: 02-01-2020, 07:38 AM
  2. Oan gia nghiệp báo
    Gửi bởi tinhnghiep trong mục Luân hồi - Nhân quả báo ứng
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-07-2019, 07:27 AM
  3. Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan
    Gửi bởi Tuệ Thức trong mục Kinh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-24-2019, 04:14 AM
  4. Thầy THÍCH THANH TỪ, Thầy cũ của Thích Chân Quang lên tiếng
    Gửi bởi lamebay trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-17-2019, 01:25 PM
  5. Những giai thoại trong nhà Thiền
    Gửi bởi hoatihon trong mục THIỀN TÔNG
    Trả lời: 4
    Bài cuối: 08-25-2018, 08:37 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •