GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN BỐN
PHẠM VI TRUNG BÌNH
NGÀY MƯỜI BỐN
Kyabje Pabongka Rinpoche trích dẫn hai câu thơ trong tác phẩm của Tsongkapa vĩ đại bắt đầu như sau: “Đời sống và thân thể chúng ta giống như bọt nổi trên nước…” Rồi ngài kể một chuyện ngắn để chúng tôi khởi động lực, và nói đến những tiêu đề đã bàn. Ngài còn ôn lại sự phát khởi niềm tin vào Luật nhân quả, phương pháp thực thục để được hạnh phúc trong những đời sau.
2.2. LUYỆN TÂM TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CỦA ĐẠO LỘ CHUNG VỚI PHẠM VI TRUNG BÌNH
Có hai phần: (1) Phát tâm cầu giải thoát. (2) Xác định bản chất con đường đưa đến giải thoát.
2.2.1. PHÁT TÂM CẦU GIẢI THOÁT
Có hai tiêu đề phụ: (1) Nghĩ về những thống khổ nói chung ở trong sinh tử. (2) Nghĩ về những khổ đặc biệt.
Như tôi đã nói, khi bạn tu tập phần Lam-rim chung với Phạm Vi Nhỏ, và giữ giới 10 bất thiện, thì bạn sẽ được tái sinh ở các cõi cao và tạm thời thoát khỏi những đau khổ ở các đọa xứ. Nhưng điều này chưa đủ. Giả sử một tội nhân, đã bị kết án tử, người ta đi xin với một kẻ có thế lực giùm y, và trong vài ngày y không phải chịu những khổ hình phụ trước khi chết như bị đánh đòn, bị đốt bằng sáp nóng, vân vân. Nhưng y vẫn không thoát được án tử hình. Cũng vậy, người ta không vĩnh viễn ra khỏi sinh tử được. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Bạn có thể lên các cõi cao
Thụ hưởng khoái lạc
Nhưng khi chết, bạn lại rơi vào
Những thống khổ của các đọa xứ
Ở đấy nỗi đau thật khó nhẫn nổi và lại kéo dài.
Nói cách khác, chắc chắn bạn sẽ đi xuống các đọa xứ khi bạn đã hết cái tầm mà nghiệp lành đẩy bạn đi lên. Nếu muốn dừng lại vĩnh viễn sự tuôn chảy của khổ đau thì bạn phải vĩnh viễn ra khỏi sinh tử.
Trong phần Lam-rim Phạm Vi Trung Bình, bạn phải phát triển những ý tưởng cầu giải thoát. Có hai cách làm việc này: Nghĩ về bản chất của bốn diệu đế, hay nghĩ về 12 nhân duyên.
Ở đây “Giải thoát” có nghĩa là hết bị trói buộc. Giả sử bạn hết bị những sợi dây thừng cột bạn, khi ấy bạn được “giải thoát”. Chúng ta bị cột bởi nghiệp và vọng tưởng vào các uẩn. Chúng ta bị trói theo cách sau. Do nghiệp và vọng tưởng, các uẩn được thành hình. Có ba lãnh vực trong đó chuyện này xảy ra, đó là Dục giới, v.v… có 5 hay 6 kiểu luân hồi trong đó chuyện này xảy ra; và có bốn hình thức tái sinh, là sinh từ trứng, từ bào thai…Đấy là bản chất của trói buộc, và giải thoát có nghĩa là khỏi bị buộc vào đấy.
Người ta thường cho “sinh tử” có nghĩa là nhận lấy những thân xác từ cõi trời Hữu đảnh cho đến Địa ngục Vô gián. Người chưa học cứ nghĩ “sinh tử” là quay cuồng những nơi cư trú tạm thời, hay quay qua lộn lại trong sáu nẽo luân hồi. Đây có thể là cách dùng danh từ đúng nhưng không phải là sinh tử thực sự. Vài học giả cho sinh tử là thọ bào thai trở lại nhiều lần, tuy nhiên, với đức Đức Dalai Lama thứ bảy là đúng nhất, ngài bảo sinh tử là sự liên tục tái sinh vào các uẩn bị ô nhiễm. Bởi vậy ta giải thoát khỏi sinh tử khi đã cắt dòng tương tục tái sinh và chui vào bào thai dưới năng lực của nghiệp và vọng tưởng.
Những tù nhân phải phát ý muốn thoát khỏi ngục trước khi họ thoát được. Họ sẽ không phát khởi ước muốn này nếu họ không xét những điều tệ hại của sự ở trong lao ngục. Cũng thế nếu bạn không muốn thoát ly sinh tử thì bạn sẽ không làm một nỗ lực nào để giải thoát. Và khi bạn khởi lên ý muốn giải thoát, thì như Aryadeva nói: “Những bậc hiền trí sợ tái sinh thù thắng cũng như sợ địa ngục.” Nói cách khác, bạn muốn cẩn thận về sinh tử, phải nghĩ về 4 diệu đế hay 12 nhân duyên.