DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 9/37 ĐầuĐầu ... 789101119 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 81 tới 90 của 370
  1. #81
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Một điểm nữa là: Nếu những người đã xuất gia thụ giới như chúng ta mà vi phạm những điều cấm liên hệ đến ba lời nguyện ta đã làm, và được vật nhờ buôn bán, thì chúng ta sẽ bị quả báo nặng nề khi đem vật ấy mà dâng cúng.

    “Động lực xảo trá” có nghĩa là cúng vì ham danh, hoặc cúng để làm cho người thán phục. Nói cách khác là những hành vi bị ảnh hưởng của những động cơ xấu. Drogoen Rinpoche nói: “Ngay cả những phẩm vật bạn dâng cúng Tam Bảo cũng chỉ là để cho người khác trông thấy.” Nói cách khác, mọi sự dâng cúng mà chúng ta làm để mưu cầu danh dự, để tiến thân, v.v…Chúng ta thụt lùi về tám sự bận tâm của thế tục (xem Ngày Thứ Mười, trang…). Chẳng thà nhận rằng mình cúng với động lực giản dị là cầu sống lâu, khỏi bệnh, có người làm như thể họ cúng đường Tăng bảo vì ngưỡng mộ chứ không hi vọng kiếm công đức gì; song kỳ thực họ cúng vì cầu danh.

    Khi nhà bạn sắp có khách viếng thăm, bạn quét nhà cẩn thận hơn và để nhiều đồ cúng trên bàn thờ hơn thường lệ. Bạn không chỉ thắp một ngọn đèn, mà còn xông trầm thơm ngát cả nhà. Nhưng thật khó biết được là bạn chỉ muốn gây ấn tượng nơi người khách, hay đồ cúng ấy sẽ có lợi gì cho bạn. Người ta kể chuyện một hôm Geshe Baen Gung-gyael nghe có thí chủ sắp viếng thăm, ông sắp hết sức để sắp đồ cúng Tam Bảo cho thật tốt đẹp. Xong ông ngồi lại để quán tưởng và xét lại những động cơ, thì thấy mình làm nòng cốt để gây ấn tượng nơi thí chủ. Ông bèn vùng dậy khỏi bồ đoàn, rắc tro lên khắp đồ cúng, mà nói: “Ồ Tỷ kheo, đừng có ngu ngốc.” Ông bỏ mặc đồ cúng bị rắc đầy tro lên.

    Padampa Sangyae ở Langkor nghe chuyện ấy, đã ca ngợi rằng trong tất cả những phẩm vật dâng cúng ở Tây Tạng, chỉ có phẩm vật của Baen Gung-gyael là cao quý nhất. Người ta hỏi tại sao như vậy, thì ông đáp rằng vị tiến sĩ kia đã tung tro vào mặt tám điều bận tâm của thế tục. Padampa rất sung sướng nhưng dĩ nhiên ông không khen ngợi đồ cúng mà Geshe Baen đã bày lúc đầu, trái lại ông khen ngợi các hành vi rắc tro lên các đồ cúng ấy.

    Bởi thế hai điều quan trọng nhất là phải làm sự dâng cúng kèm theo tâm Bồ đề. Để đừng cho tám mối bận tâm thế tục làm động lực thúc đẩy, đừng cúng để cầu được tái sanh tốt đẹp, hay được giải thoát, v.vv…

    Trên đây còn nói “bày biện đẹp mắt.” Nhiều người có thể bảo, “tôi không muốn gây ấn tượng,” và do vậy cứ bày đồ cúng bằng cách nào cũng xong. Nhưng bạn không nên làm thế, phải sắp đồ cúng trên bàn thờ một cách tỉ mỉ công phu, và đẹp mắt là một nhân tố để có những tướng hảo và những tướng phụ tốt đẹp khi bạn thành Phật.

    Bạn phải đích thân trưng bày đồ cúng, nếu để cho đệ tử hay tôi tớ làm thì bạn không được công đức nào. Khi Atisha ốm nặng, ngài vẫn dâng nước cúng mặc dù hai chân đã run. Khi người ta bảo ngài, “Ồ ngài Atisha, thực quá cực nhọc cho ngài. Để chúng tôi làm thay.” Ngài trả lời: “Vậy thì khi tôi ăn, có lẽ bạn cũng nên nói rằng Atisha, thật quá cực nhọc cho ngài, rồi ăn giùm phần ăn của tôi. Những vị vua Pháp ở Ấn Độ thời xưa khi thực hành hạnh bố thí vĩ đại, họ không cử một vị bộ trưởng hay quan chức nào ra phát quà, mà đích thân vua ngồi giữa những chồng tiền trong một cái rạp, tự tay vua phân phát. Bởi thế, điều thực quan trọng là ta phải tự tay dâng đồ cúng.
    Om Mani Padme Hum !

  2. #82
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bạn cũng nên dâng cúng miếng ăn đầu tiên của mình - tốt nhất, chứ không nên cúng những rau ôi, v.v…

    Thường chúng ta ưa dành thực phẩm ngon nhất cho mình, để riêng những thứ xấu để cúng. Như thế chẳng khác nào quét hết công đức ra cửa. Tuy nhiên nói về cúng đèn bơ, thì cốt là dâng ánh sáng, chứ không phải là dâng bơ (hay dầu) nên có người nói có thể cúng bơ đã hơi cũ.

    Bạn không cần phải lo ngại về những chuyện ấy nếu bạn nghèo. Sau khi đã từ bỏ đời sống tại gia, bạn có thể nghĩ rằng mình chẳng có gì để cúng. Nhưng nếu bạn có đức tin mạnh, bạn cũng có thể dâng cúng, dù bạn không còn thứ gì. Đức Atìsha vĩ đại có nói:

    “Nước ở Tây Tạng có tám công đức, bởi thế ở đây ta chỉ cần cúng nước là đủ. Nếu có những thứ hoa dại ở Ấn, có lẽ người ta sẽ mua bằng vàng ròng.”

    Vậy, nếu không có gì để cúng, bạn cũng có thể tích tập công đức bằng cách dâng cúng những chén nước với những động lực trong sạch.

    Bây giờ tôi sẽ nói đến tám công đức của thứ nước ở Tây Tạng chúng ta. Tôi sẽ theo lời giải của tôn sư về những lợi lạc mà ta có được từ mỗi thức công đức ấy. Trong lời sớ giải của Chim Jampaelyang về tác phẩm của Thế Thân (Vasubandhu) có nói tám công đức ấy là:

    Mát, ngon, sáng, mềm

    Trong, không mùi, trơn cổ

    Tốt cho dạ dày; đó là

    Tám công đức của nước.


    Tám lợi ích tương ứng về phương diện nghiệp là như sau. Giới của bạn được thanh tịnh do nước mát của bạn cúng. Nước ấy có vị ngon nên bạn sẽ có được thức ăn ngon. Tính sáng của nước cũng có nghĩa là bạn sẽ có thân tâm sảng khoái. Tính mềm mãi của nước đem lại quả báo là một dòng tâm thức hiền hòa. Sự trong trẻo của nước cúng đem lại cho bạn một tâm thức sáng suốt. Sự không mùi của nước có hậu quả là nghiệp chướng của bạn được tịnh trừ. Nước trong không gây bệnh dạ dày, nên thân thể của bạn sẽ không có bệnh. Nước làm trơn cổ họng, nghĩa là bạn sẽ có được ái ngữ.

    Khi Drubkang Geleg Gyatso mới dời vào một nhà ẩn cư ở tu viện Sera, ông có rất ít vật tùy thân và lương thực. Ông không có cả một bộ chén để cúng nước. Khi dâng cúng nước, ông phải rửa sạch bát ăn của mình để đựng nước cúng. Mỗi khi muốn uống trà, ông lại xin phép Tam Bảo để lại cái bát; và uống trà xong, ông lại rửa bát để dâng nước cúng.

    Bạn có thể dâng cúng Tam Bảo bất cứ thứ gì, như hoa trái, nước trong mát, vân vân. Bậc tôn sư tôi dạy, ta cũng có thể hiến cúng bằng cách đọc thần chú biến thủy biến thực (xem Ngày Thứ Năm, trang….) và hồi hướng công đức v.v… Xem chi tiết trong phần nói về tiểu sử của Tridagpo Tsepel. Trong bất cứ trường hợp nào, đức tin của bạn cũng là yếu tố chính, chứ không phải phẩm vật mà bạn dâng cúng.
    Om Mani Padme Hum !

  3. #83
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nhiều người nghĩ rằng phải chăng chỉ cần cúng nước, bông hoa, v.v… và để dành những thứ thực sự quý giá cho mình sử dụng. Tư tưởng ấy có thể làm cho bạn tái sanh làm ngạ quỷ. Thật ra bạn phải cúng cái gì tốt nhất mà bạn sở hữu.

    Một số Tỷ kheo đã từ bỏ các công việc thế tục có thể nghĩ rằng, “mình không nên cúng dường những thứ thuộc về vật chất. Vì chúng ta được dạy bảo rằng người xuất gia chỉ nên tập trung vào việc cúng dường những kết quả của sự tu thiền. Chỉ cần cúng dường cách ấy là đủ.” Nhưng nếu ý nghĩ ấy làm cho bạn không bao giờ cúng một thứ gì thuộc về vật chất, thì trong nhiều đời tái sanh, bạn sẽ chẳng có một chút gì để làm phẩm vật cúng dường.

    Nếu những gì bạn có được để cúng chỉ là những chiếc bánh nhỏ xíu và nữa que hương, bạn cũng không nên xem thường giá trị của những vật ấy, vì bạn đã tăng công đức nếu đem dâng cúng. Về sau nhờ công đức ấy bạn có nhiều của cải vật chất để cúng dường. Điều này được chứng minh bằng cuộc đời ngài Geshe Puchunga. Ngài nói:

    Lúc đầu tôi chỉ đốt gentian thay cho trầm hương. Tôi đốt nhiều quá đến chảy nước mắt. Về sau tôi có hương thơm làm bằng bốn thứ vật liệu. Bây giờ thì tôi cúng hương của các thứ hoa myrobalan, duraka, vân vân.

    Quả thế ngài đã từng cúng một số hương trầm giá trị bằng hai mươi hai đồng vàng. Tuy thế nhiều người lại bảo, “Geshe Puchungwa là người đã chứng đạo, chuyên thiền định. Chúng ta đừng hi vọng giác ngộ nhờ những việc làm bề ngoài ấy.” Nói như vậy chứng tỏ họ rất hiểu biết Phật pháp. Ta nên nghĩ tới việc các vị bồ tát đã lên địa vị trong mười địa vẫn cúng dường chư Phật trong nhiều kiếp, bằng trăm ngàn hóa thân, mỗi hóa thân cúng trăm ngàn cánh tay. Bởi thế chúng ta cũng nên cúng dường càng nhiều càng tốt.

    Bây giờ hãy nói qua về cách cúng, ví dụ cúng nước. Bạn phải lau chùi những chén đựng nước và sắp thành một đường thẳng. Nhưng không nên để chén cách nhau quá xa, sẽ có hậu quả là bạn ở xa bậc thầy. Nếu để sát nhau, bạn có thể trở nên đần độn. Và nếu bạn đặt chén xuống một cách ồn ào, bạn có thể mắc bệnh điên, v.v… Nếu bạn đặt chén xuống trong khi chúng còn trống rỗng, thì công đức của bạn sẽ giảm. Thay vì thế, bạn sẽ cầm chồng chén trên tay và rót ít nước vào chén trên cùng, trong khi miệng đọc chú làm phép bằng ba âm om, ah, hum. Rót nước từ cái chén này vào cái chén kế tiếp, chỉ chừa lại một ít. Đặt chén đầu tiên lên bàn thờ rồi tiếp tục làm như trước. Bằng cách ấy, bạn không đặt chén trống nào lên bàn thờ. Khi rót đầy nước vào những chén ấy, thì bạn không nền cầm cái bình dù chỉ một tay, vì như vậy chứng tỏ sự bất kính. Bạn phải làm như mình đang dâng trà cho một bậc đại vương.

    Một hạt lúa mạch có hình dáng hai đầu mỏng, giữa phình ra: bạn phải đổ đầy nước kiểu ấy, nghĩa là lúc đầu rót một ít, rồi rót nhiều, và cuối cùng giảm từ từ. Nếu bạn rót tràn chén, thì giới hạnh của bạn sẽ lỏng lẻo, nếu rót lưng chén thì mức sống của bạn sẽ nghèo nàn. Mức nước phải ở dưới mức tràn đầy miệng chén, như hình một hột lúa mạch.

    Đèn thắp bằng bơ (hay dầu) là cúng dường ánh sáng, nên phải sáng. Người ta bảo đèn càng cháy lâu càng tốt, đó làdấu hiệu trường thọ. Bạn hãy tự nghĩ ra cách dâng cúng các phẩm vật khác như hoa v.v… cho thích hợp.

    Kinh nói rằng mỗi sự dâng cúng của bạn có mười lợi ích.

    1.1.3. Ngồi theo thế có tám sắc thái, hoặc bất cứ kiểu nào tiện cho bạn, trên một chỗ ngồi thuận tiện, rồi quy y, phát tâm bồ đề, vân vân, trong một tâm trạng thành khẩn, làm sao để cho những hành trình ấy thấm nhuần dòng tâm thức bạn.

    Phần sau của tọa cụ cần hơi cao lên. Điều này có ý nghĩa sâu xa trong Mật tông; nó cũng làm cho bạn khỏi đau mông khi ngồi thiền lâu quá.

    Bạn nên vạch một chữ Vạn trên chỗ ngồi bằng phấn trắng. Nó tượng trưng cho chùy (? cross) kim cương và nhắc bạn nhớ đến giai đoạn đời Phật lúc Ngài ngồi trên tòa Kim cang tại Bồ đề tràng. Nó cũng biểu trưng sự kiên quyết tu hành. nhưng không nên ngồi trên một cây chùy kim cang thực vì đấy là một trong những biểu tượng của chư Thần bảo hộ. Trên chữ Vạn hãy đặt cỏ duvra và cỏ kusha. Nguồn gốc của tập tục này rút từ đời Phật. Cỏ duvra làm tăng thọ mạng, nghĩa là khi bạn ngồi trên ấy thì bạn sống lâu. Cỏ kosha thì “sạch và đức hạnh,” có nghĩa là công năng trừ ô nhiễm bất tịnh. Khi những người Bà la môn ở Ấn bị ô uế giai cấp, họ tẩy uế bằng cách ngủ một đêm trên một đám cỏ kusha. Bởi thế bạn nên rãi cỏ kusha trên chỗ ngồi để tẩy uế.
    Om Mani Padme Hum !

  4. #84
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thế ngồi có tám sắc thái nói trên đây là ám chỉ cái thế ngồi Tỳ lô giá na với bảy đặc điểm; sắc thái thứ tám là hành vi đếm hơi thở. Gyaelwa Ensapa nói:

    Đùi, tay, lưng là ba

    Răng môi lưỡi là bốn

    Đầu, mắt, vai, hơi thở

    Là tám thế Tỳ lô giá na.


    Hai ống chân đặt theo thế hoa sen hay kiết già (vajra). Cũng có thể ngồi theo thế bán già là thế ngồi của Bồ tát. Nhưng thế kiết già là bắt buộc cho những thiền tập trong Mật tông ở giai đoạn viên mãn.

    Đặt hai bàn tay trong dáng ngồi nhập định, nghĩa là bàn tay phải nằm trong lòng tay trái, hai đầu ngón cái giao nhau ở ngang rốn. Lưng thẳng, cột sống thẳng như một chồng xu. Người ta bảo những huyệt đạo nằm thẳng hàng khi cơ thể ở vị trí thẳng đứng, và khi ấy khí được điều hòa, tâm trở nên dễ sử dụng.

    Răng và môi không được quá chặt cũng không quá lỏng, tốt hơn cả là để chúng tự nhiên. Đầu lưỡi trên cong lên trên, khiến miệng không bị khô, và khi đi sâu vào thiền định, nước bọt không bị nhễu ra ngoài.

    Đầu nên hơi cúi về phía trước. Có người bảo hai mắt nên tập trung vào chót mũi, song kỳ thực bạn chỉ nên tập trung vào tư thế để mắt bạn có thể thấy cả hai bên mũi. Mục đích là để cắt đứt sự hôn trầm hay tán loạn (xem Ngày Thứ Hai Mươi Mốt, trang…). Có người nhắm nghiền mắt lại trong lúc quán tưởng. Điều này sai. Có những phái khuyên nhìn lên, v.v… bắt chước những người có quan năng tốt nhất, những người có cái biết của pháp thân. Nhưng điều này xa lạ với truyền thống của chúng ta.

    Hai vai nên ngang nhau đừng bên cao bên thấp.

    Đấy là bảy điểm của thế Tỳ lô giá na. Nó có ý nghĩa sâu xa trong giai đoạn viên mãn, nhưng đây không phải là chổ để bàn đến. Thế ngồi này rất quan trọng, vì Marpa ở Lhodrag nói: “Toàn thể thiền định của Tây Tạng không sánh bằng một kiểu ngồi của tôi.” Thế ngồi này được nói là của Phật Tỳ lô giá na vì ngài là khía cạnh thuần tịnh của sắc uẩn dưới dạng một chư Thiên.

    Sắc thái thứ tám là hành vi đếm hơi thở. Khi tâm vương bất thiện thì tâm sở tùy tùng cũng bất thiện nốt. Trong tình huống ấy, thật rất khó để hô triệu một tâm thể đức hạnh hiện ra. Ví dụ bạn có thể làm một cách máy móc sự khởi tâm Bồ đề như là tụng câu: “Vì tất cả những hữu tình, những bà mẹ của tôi…” trong lúc bạn rất tức giận; nhưng bạn không thể cố hô triệu được một tâm trạng đức hạnh trong khi tâm vương và tâm sở đều bất thiện. Vậy trước hết bạn phải thay đổi tâm trạng từ giận dữ đến dửng dưng. Như có một tấm vải trắng đầy vết đen. Nó khó mà nhuộm thành màu khác. Nhưng nếu bạn giặt cho nó toàn trắng thì khi ấy có thể nhuộm bất cứ màu gì.
    Om Mani Padme Hum !

  5. #85
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tâm trạng dửng dưng ở đây có nghĩa là không tốt không xấu. Nó giống như miếng vải trắng không vết dơ. Bạn có thể tự hỏi, vậy thì kỹ thuật đếm hơi thở là thế nào để chuyển tâm trạng ta thành dửng dưng? Bạn hướng tâm vào trong, và xét động lực của bạn. Nếu bạn thấy mình đang bị tham, hay sân vân vân chi phối, thì bạn nên thở vào thở ra một cách thoải mái. Đừng để hơi thở bạn phát ra tiếng khi nó đi qua lỗ mũi. Hơi thở đừng quá mạnh cũng đừng quá so le (hơi ngắn hơi dài). Khi hít vào bạn nghĩ: “Tôi đang thở vào. Đây là hơi thứ nhất.” Rồi đến hơi thứ hai cũng như vậy, tiếp tục làm cho đến bảy, mười, mười lăm, hăm môt vân vân, nhưng đừng dùng chuổi tràng mà đếm. Đừng tán tâm trong khi đếm. Con người thông thường không thể giữ hai chuyện trong tâm cùng một lúc, vì vậy mà tâm (khi để ý hơi thở) sẽ chuyển từ tham hay sân thành trạng thái dửng dưng.

    Người ta bảo bạn nên quán tưởng như sau. Khi bạn thở ra, hãy tưởng tượng sư si mê vọng tưởng của ta có hình dạng luồng khói đen ở trong hơi thở ra. Khi bạn thở vào những ân phước của chư Phật và Bồ tát nằm trong hơi thở vào dưới dạng những luồng ánh sáng. Tuy nhiên điều này không bắt buộc, nó chỉ là một cách giúp ích cho bạn.

    Khi tâm đã trở nên dửng dưng, thì dễ gợi lên trạng thái tâm tốt lành. Thầy tôi cho một ví dụ như sau. Giả sử gặp mùa Đông rét buốt, trên nền nhà chỉ có một tấm nệm ngồi, và đó là nệm của bạn, song có một người đang ngồi trên ấy. Nếu bạn tới bảo họ đứng dậy, họ sẽ không chịu; bởi thế bạn đi xa xa một chút và la lên: “Ồ cái gì kia kìa!” rồi làm bộ chạy ra xem. Người kia sẽ đứng lên để ra xem, thế là bạn có thể ngồi trên cái nệm của bạn nếu bạn khá nhanh chân. Cũng thế, thật khó mà chấm dứt tham sân v.v… trang lúc đang ở trong tâm trạng bất thiện, dù bạn có nỗ lực cách mấy. Nhưng nếu bạn tập trung tâm vào hơi thở, thì điều ấy sẽ định hướng lại cái tâm của bạn và làm lắng dịu lại vọng tưởng si mê. Khi ấy thì việc khởi tâm trạng tốt sẽ hóa ra dễ dàng hơn. Nhưng hãy nhớ rằng, trong khi tâm vương và tâm sở đang ở trong tình trạng bất thiện mà vẫn còn có thể khởi tâm tốt lành. Vậy có thể bạn không cần đếm hơi thở (nếu tâm đang ở trong trạng thái không sân). Đó là lý do nói có bảy hay tám sắc thái.

    Có thể bạn không cần đếm hơi thở, nhưng bạn vẫn phải khởi động tâm trạng tốt lành khi mới bắt đầu thời thiền định. Khi bạn khởi sự bất cứ việc tu tập nào, điều cốt yếu là phải có động lực chính đáng từ đầu. Đức Tsongkapa vĩ đại viết tác phẩm Những Câu Hỏi Về Hạnh Vị Tha Trong Trắng Nhất, trong đó ngài chỉ rõ một số điều cho những thiền sư Tây Tạng. Một trong số những câu hỏi ấy là: “Khởi đầu thời thiền, cái gì có tầm quan trọng ngang hàng với hai chữ Phạn ngữ khởi đầu mỗi bản Kinh?” Đức Panchen Lama Longzang Gyaeltsaen trả lời:

    Trước mỗi thời thiền

    Hãy xét lại dòng tâm thưc,

    Cũng như hai chữ Phạn ngữ

    Phải ở đầu lưỡi bản Kinh.


    Đây là ý nghĩa thầy muốn nói, hỡi bậc đạo sư vô tỷ.

    Nói khác đi, điều cốt yếu là bạn phải khởi động lực tốt trước khi ngồi thiền. Trong một bản Kinh có dạy: “Trong tất cả các Pháp, nguyện vọng của bạn luôn luôn là yếu tố chính.” Bậc thầy Long Thụ nói:

    Tà hạnh theo sau sự phát triển tham, sân, si.

    Chánh hạnh theo sau sự tu tập lìa tham, sân, si.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #86
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Atìsha nói:

    “Nếu rễ cây đã độc, thì cành lá cũng độc. Nếu rễ cây có dược tính, thì cành và lá cũng có dược tính. Tương tự, nếu gốc rễ đã là tham, sân, si thì bất cứ gì người ta làm cũng đều bất thiện.”

    Nói cách khác, nếu bạn có động lực là si mê, thì bất cứ sự học tập quán tưởng hay thiền định nào bạn làm cũng chỉ kết thành nghiệp quả tệ hại nhất. Nhưng nếu bạn được thúc đẩy bởi những tư tưởng cao quý, mà lại phạm phải một hành vi bất thiện như sát sanh, thì điều ấy sẽ là một yếu tố mạnh mẽ giúp bạn mau thành tựu công đức và trí tuệ.

    Khi Đức Phật bậc Đạo sư của chúng ta đang còn tu tập, có lần Ngài tái sanh làm thuyền trưởng tên Đại Hữu Tình. Vị này cùng năm trăm thương nhân đi biển tìm châu báu. Trên thuyền có một người Dravidian tên là Shakti có ý muốn sát hại cả năm trăm lái buôn. Thuyền trưởng vì lòng bi mẫn bao la đã giết Shakti để cứu mạng năm trăm người. Ngài còn làm việc với mục đích trường kỳ là, để người kia khỏi phải tái sanh vào đọa xứ. Hình thức này được xem là tích lũy công đức nhiều hơn bình thường người ta làm trong bốn mươi ngàn đại kiếp. Mặc dù hành vi sát sanh không thể làm viên mãn công đức của một người, nhưng chính động lực cao cả - lòng bi mẫn - đằng sau hành vi ấy mới làm nên sự viên mãn.

    Động lực làm nên tất cả mọi sự: phước hành, phi phước hành, sự thuần thục của nghiệp thành ra quả báo lạc hay khổ, sức mạnh của nghiệp vân vân. Ngày xưa Ấn có hai kẻ ăn xin dòng Bà la môn và một khất sĩ Sát đế lợi (chiến sĩ). Những người Bà la môn đi xin sai giờ; không ai cho thứ gì bởi vì đại chúng thường ăn xong mới đem thức ăn cho kẻ khác. Khất sĩ Sát đế lợi thì khôn ngoan hơn, đi xin vào lúc người ta sắp quẳng bỏ thực phẩm còn thừa. Kết quả là ông ta xin được một lượng lớn thực phẩm. Ông ta hỏi hai người kia: “Các ông có xin được gì không?” Họ nổi quạu nói: “Nếu có dịp, chúng ta sẽ chặt hết đầu những ông thầy tu dòng Thích Ca, và vứt ra đường cho đến thối rữa.”

    Khất sĩ Sát đế lợi vì đã được nhiều thực phẩm nên phát sinh tịnh tín đối với Tăng già. Ông bảo: “Khi nào tôi giàu, tôi sẽ cúng Phật và Tăng chúng của ngài hàng ngày, thức ăn đủ trăm vị..”

    Họ vừa đi vừa nói chuyện và trong lúc ấy họ đã tới thành Xá Vệ. Họ đánh một giấc ngũ dưới gốc cây. Một chiếc xe bò chạy lạc băng qua họ, cán đứt đầu hai người Bà la môn.

    Cùng lúc ấy có một thương gia chết tại Xá Vệ. Ông ta không có con. Nên những người trong thành hội họp để định xem ai là người nhiều công đức nhất sẽ làm thừa kế của thương gia ấy. Họ tìm thấy người ăn xin dòng Sát đế lợi ngủ dưới gốc cây, bóng cây luôn che cho ông, trong lúc các bóng cây khác đã dời chỗ. Họ bèn tôn ông ta là trưởng đoàn thương gia. Người Sát đế lợi giữ lời hứa cúng dường Phật và Tăng chúng. Ông nghe Pháp và thấy được chân lý. Trong Kinh ấy nói:

    Tâm vượt hơn tất cả mọi sự khác

    Tâm làm việc nhanh chóng, nó là gốc rễ.

    Nếu tâm người xấu ác, thì hay nói làm gì

    Cũng chỉ chuốc lấy đau khổ, như hai người

    bị bánh xe nghiền nát đầu

    Nếu tâm người trong sạch, thì làm hay nói gì

    cũng sẽ được hạnh phúc như người

    được bóng cây che chở

    Om Mani Padme Hum !

  7. #87
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nói cách khác, những nghiệp quả cụ thể sẽ theo liền động lực tốt hay xấu của con người.

    Lại nữa, không những bạn cần có động lực tốt từ khi khởi đầu việc thiện, mà cần phải có động lực tốt trong mọi thời.

    Ngày nay người ta thường hỏi thăm sức khỏe nhau, nhưng Atìsha lại hỏi: “Bạn có tâm tốt không?” Tsongkapa nói:

    Hắc hay bạch nghiệp

    Là do động lực xấu hay tốt

    Nếu động lực tốt

    Thì đạo lộ và địa vị cao

    Nếu động lực xấu

    Thì theo đường pháp và bực thấp.

    Mọi sự tùy thuộc vào động lực của người làm.


    Động lực là yếu tố quan trọng để định đoạt thiện nghiệp quả mà ta có được, cũng như năng lực của nghiệp ấy. Giả sử bốn người cùng đọc một chuỗi thần chú Tara. Người thì có động lực là tâm Bồ đề, người động lực là sự từ bỏ, người thứ ba mong có tái sinh tốt đẹp, và người cuối cùng chỉ cầu mong đời này được sống lâu, khỏe mạnh, vân vân. Mặc dù họ tụng giống nhau, mà quả báo họ lại được rất khác nhau rất xa. Người đầu tiên tụng chú với mong cầu phát tâm Bồ đề, cho nên sự tụng chú ấy sẽ có cái nhân để Giác ngộ. Đó là hành động của một người con Phật và là một Pháp tử Đại thừa. Điều này không áp dụng cho ba trường hợp kia.

    Người thứ hai tụng để cầu từ bỏ; bởi thế nó là một cái nhân để giải thoát, ra khỏi sinh tử. Đấy là Pháp thuộc phạm vi Trung bình. Sự tụng đọc của hai người còn lại sẽ không góp phần giúp họ giải thoát, mà nó thuộc về nguồn gốc của sự khổ.

    Sự tụng chú của người thứ ba không giúp cho Tri kiến hay Giải thoát, mà chỉ giúp cho khỏi tái sanh vào cõi thấp xấu. Đấy là Pháp thuộc phạm vi Nhỏ.

    Sự tụng chú của người thứ tư chỉ liên hệ đến đời này, và bởi thế không phải là Chân lý hay Pháp nữa. Sự tụng đọc như thế sẽ khó có được hiệu quả nào trên cuộc đời của y; Atìsha nói:

    Nếu bạn hỏi tôi chỉ nghĩ đến đời này mà thôi thì hậu quả là gì, tôi sẽ trả lời: hậu quả chỉ là hậu quả trong đời này. Nếu bạn hỏi cái gì sẽ xảy đến trong các đời sau của bạn, thì tôi sẽ nói cho bạn biết: bạn sẽ ở Địa ngục, hoặc làm Ngạ quỷ, hoặc làm Súc sinh.

    Bởi thế, khi người xuất gia chúng ta tham dự những lễ lạc hay thực tập tranh luận, thì nên làm những việc ấy kèm theo tâm Bồ đề, được như vậy thì mỗi bước chân của chúng ta đều là việc của người con Phật; mỗi bước đi cũng đáng giá ngàn vàng. Nhưng nếu chúng ta cúng dường bất cứ gì chỉ để được thăng chức trong tu viện, thì sự cúng dường ấy chỉ xứng đáng theo cách mô tả của Atìsha trên đây.

    Động lực của người hành thiền cũng định đoạt việc thiền định ấy có ý nghĩa gì không. Atìsha bảo, sự thiền định thực sự quý báu là thiền định về bậc đạo sư. Nếu bạn thiền chỉ vì mong muốn nhận tặng phẩm dâng cúng thì tất cả những thiền định của bạn đều là tội lỗi. Nếu bạn thiền định với dù chỉ nghĩ đến một thoát nghĩ đến việc chấm dứt biển khổ luân hồi, thì công đức bạn sẽ tràn khắp hư không.

    Như vậy, nếu bạn không áp dụng việc khởi động lực cho đúng khi hành thiện dù trong một việc nhỏ hay lớn, thì sự hành thiện ấy không đi đến đâu. Những việc ấy là học tập, quán tưởng, thiền định, tặng quà, bố thí, v.v… Bởi thế bạn phải cẩn thận áp dụng sự khởi động đúng ngay từ đầu. Hơn nữa, vì đây là Pháp Đại thừa, nên có thiện ý không mà thôi chưa đủ, bạn phải thực hành tất cả thiện sự kèm với một loại tâm trạng tốt đặc biệt, đó là Bồ đề tâm.
    Om Mani Padme Hum !

  8. #88
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________

    B
    Nếu bạn có ồ đề tâm không gượng ép, nó sẽ tự phát không cần bạn phải làm những điều sau đây. Nếu Bồ đề tâm của bạn thuộc loại gượng gạo, thì bạn cố ý khơi nó dậy. Tâm bạn sẽ thay đổi phương hướng nếu bạn chỉ đọc câu “Vì lợi lạc tất cả hữu tình…” mà không phải chuẩn bị gì thêm. Thay vì thế, bạn nên bắt đầu chẳng hạn “Tôi có được thân người thuận lợi…” và chấm dứt như sau: “… Tôi sẽ đạt Giác ngộ vì lợi lạc cho tất cả hữu tình. Bởi thế tôi sẽ thiền quán về bài giảng Những Giai Đoạn Trên Con Đường Giác Ngộ.” Tôi đã đề cập điều này trong mấy hôm trước. Nói cách khác, bạn sẽ khởi tự quán từ đề mục thân người khó được cho đến đoạn nói về sự phát Bồ đề tâm. Khi ấy tâm thức bạn sẽ được chuyển hóa.

    Những bậc thánh trong quá khứ đã cho chúng ta những lời dạy khác nhau, hoặc chi tiết hoặc vắn tắt, về cách nào để khởi động lực tu tập. Có vị cho rằng nếu chúng ta không thể chuyển hóa tâm thức bằng tiến trình tư duy thì chỉ cần đọc lên vài bài tụng để phát khởi động lực cũng đủ. Nhưng chính tâm thức khởi động lực chứ không phải lỗ miệng. Bởi thế ta phải chuyển hóa tâm thức bằng cách để tâm thấm nhuần ý nghĩa của bài giảng đang được tụng.

    Như vậy, chỉ trong tâm trạng đặc biệt thành khẩn ấy, bạn mới nên quy y. nhưng hãy cẩn thận, trong bài giảng này tôi đang phối hợp ba bản Lam-rim với nhau, và bạn không nên lẫn lộn, vì mỗi bản có nghi thức chuẩn bị riêng, phép quán tưởng quy y và ruộng phước cũng riêng. Bây giờ người ta có lệ giảng những nghi chuẩn bị theo hệ phái phương Nam vì nó thuận tiện. Tuy nhiên trong việc đọc tụng hàng ngày, thì phải sử dụng bản Con Đường Nhanh.

    Trước khi quy y, bạn phải làm pháp quán quy y. Con Đường Nhanh nói về sự quán tưởng này như sau. Hãy quán trước mặt bạn một bảo tòa khổng lồ có tám con sư tử nâng đỡ. Nếu quán tòa ấy quá cao thì tâm bạn sẽ bị trạo cử, quán nó quá thấp bạn sẽ bị hôn trầm. Cách lý tưởng là quán tòa ấy ngang tầm với giữa hai lông mày bạn. Trên pháp tòa khổng lồ ấy có năm tòa nhỏ: một tòa ở giữa, bốn tòa ở bốn bên Đông Tây Nam Bắc.

    Tòa trung ương hơi cao hơn tòa bốn hướng. Hãy quán tưởng đấng Đạo sư chúng ta là Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi tòa ở giữa. Ngài tự nhiên là bậc Thầy gốc (bổn sư) giảng Pháp cho bạn. Chi tiết của sự quán tưởng về Phật phải phù hợp với bản Kinh bạn vừa tụng. Bạn tưởng Ngài là bậc thầy tự nhiên của mình, và nhờ thầy mà bạn phát triển được tất cả quả chứng, kết quả của sự tuân theo con đường. Bậc thầy của bạn mang hình dáng Đức Thích Ca là Vua của Giáo lý, suối nguồn của Pháp. Bàn tay Ngài bắt Ấn địa xúc có nghĩa sự hàng phục Lục dục thiên, con quỷ dục vọng (Thiên ma). Tay trái Ngài cầm bát khất thực đựng nhiều thứ nước cam lộ khác nhau: cam lộ chữa trị mọi bệnh tật để biểu trưng sự đánh bại con quỷ năm uẩn (ấm ma); cam lộ Bát tử có nghĩa sự đánh bại thần chết (tử ma Yama); cam lộ Trí căn bản vô nhiễm có nghĩa là sự đánh bại con quỷ si ám (phiền não ma hay con ma vô minh). Bạn phải nghĩ điều này có nghĩa Đức Phật đã dẹp cả bốn con quỷ ấy đã từng ám hại Ngài, và giờ đây chúng ta cũng sẽ đánh bại được bốn con quỷ trong chính chúng ta.

    Ở trong trái tim Phật là Kim cương trì; đây là thực thể Tuệ. Nơi trái tim Kim cương trì có một chữ Hum màu xanh, đây là thực thể Định. Bạn phải quán ba thực thể ấy, thực thể này nằm trong thực thể kia. Sự quán tưởng này liên hệ đến Mật điển.

    Bạn có thể tự hỏi: “Nhiều người đã dạy tôi pháp tu Lam-rim. Vậy tôi nên quán vị nào ở hình ảnh trung ương?” Bạn hãy xem như bậc thầy chính của mình, vị nào giúp ích nhất cho dòng tâm thức bạn.

    Đức Di lặc ngồi trên tòa nhỏ hơn về phía tay mặt của Phật Thích Ca. Di lặc được vây quanh bởi những tòa nhỏ hơn, trên đó ngồi những bậc thầy thuộc Hệ phái Rộng hay Những Hành Vi Quảng Đại Vi Quảng Đại. Đức Văn Thù ngồi trên tòa bên trái của Phật. Ngài cũng được vây quanh bởi những tòa nhỏ hơn, trên đó ngồi những bậc thầy thuộc Hệ phái Tri Kiến Sâu Xa. Kim cương trì (Vajadhara) ngồi trên tòa phía sau đức Phật; ngài được vây quanh bởi những đức bậc thầy thuộc Hệ phái Thực Hành.
    Om Mani Padme Hum !

  9. #89
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Trên tòa trước mặt đức Phật là chỗ ngồi của Bổn sư bạn trong hình ảnh thông thường của vị ấy. Bạn không nên quán những khuyết tật của ông, ví dụ ông bị mù. Tay phải ông đang bắt ấn thuyết pháp, tay trái ông có một bình đựng Cam lồ bất tử dành cho buổi lễ quán đảnh cầu trường thọ. Hai ấn quyết này biểu trưng thầy chính là Phật, vì thầy có thể dạy Pháp trong khi nhập thiền định về Tánh Không. Dáng điệu giảng pháp cũng khuyến khích cho người môn đệ học tập; dáng điệu ngồi thiền khuyến khích môn đệ áp dụng những gì đã học vào thực hành. đức Tsongkapa vĩ đại có nói:

    Hai việc chính ngăn cản người may mắn

    Không thực hành con đường giải thoát

    Là si mê đánh bại tâm trí

    Và thần chết đánh gục thân xác.


    Những chướng ngại cho sự tu tập Pháp là si mê vì nó chinh phục tâm trí, và thần chết vì nó chinh phục thân xác. Để đối lại chúng, bậc thầy của bạn làm dáng điệu giảng pháp để ám chỉ sự đánh bại si mê. Bình ban bố thọ mạng và nước cam lồ bất tử ám chỉ sự đánh bại thần chết. Còn nhiều điểm sâu xa khác tôi có thể đề cập là bốn loại thần thông mà bạn có thể thành tựu được nhờ tuân phục bậc thầy, đó là an lạc, tăng trưởng, ảnh hưởng và phẫn nộ.

    Bậc thầy được vây quanh bằng những người mà bạn đã thọ giáo về Pháp, bắt đầu từ người dạy cho các bạn đánh vần. Nếu ai hỏi chúng ta số lượng bậc thầy của mình, ta không thể biết được và phải đếm bằng chuổi tràng của ta. Nhưng ta có thể trả lời nhanh chóng nếu có ai hỏi trong túi ta có bao nhiêu tiền. Điều ấy chứng tỏ chúng ta không xem trọng bậc thầy như gốc rễ của con đường tu tập.

    Trong sự quán tưởng này, do thầy nào của bạn mà còn sống thì ngồi trên những tấm tọa cụ; những thầy nào chết ngồi trên tòa sen và dĩa mặt trăng (nguyệt luân).

    Chúng ta sẽ dùng từ “Năm bộ loại bậc thầy” vì những bậc thầy trong phép quán này ngồi theo năm nhóm. Những hình ảnh khác của ruộng công đức (phước điền) - từ Thần hộ mạng cho đến Thần hộ pháp - vây quanh những vị thầy này. Những thần này đứng hoặc ngồi trên những tòa lớn nhất nâng đỡ tòa nhỏ. Theo truyền thống khẩu quyết của tôn sư, thì những vị Trời thiền được xếp ngồi chung quanh năm bộ loại thầy. Đây là theo thực hành của thầy giáo đạo Tsecholing Rinpoche. Những chư Thiên ở trong vòng cùng là chư Thiên thuộc Mật điển Du già Tối cao. Những vị này được vây quanh bởi những vị thần Mật điển Du già (Yoga tantra). Kế tiếp là những vị Thần thuộc mật điển Charyà (thiên về Hành - DG ) và cuối cùng là mật điển Kriyà (thiên về Quán - DG ). Thế là có bốn vòng tròn chư Thiên đồng tâm điểm. Chuzang Lama Geshe Gyatso đặt bốn loại chư Thiên ở bốn hướng: chư Thiên thuộc mật điển Du già tối cao ở trước, thuộc mật điển Du già ở bên phải Đức Phật trung ương, vân vân. Theo cách xếp đặt này, trong những bức họa của Chuzang về phép quán ruộng phước, người ta chỉ thấy được chư Thiên thuộc mật điển tối cao.

    Trong bất cứ trường hợp nào, những vị Trời thiền cũng đều được vây quanh bởi những Đức Phật trong ứng hóa thân tối thượng. Nổi bậc nhất trong nhóm này là một ngàn Phật thuộc kiếp may mắn hiện tại, tám đức Như Lai (xem trang…), ba mươi lăm vị Phật Hồng Danh Bửu Sám, vân vân. Ý nghĩa phép hành trì này là như sau. Có vô số Phật nhưng chúng ta có liên hệ mạnh với chư Phật trong hiền kiếp này. Chúng ta được biết rằng trong thời đại giáo hóa Phật Thích Ca Mâu Ni, thì sự cầu nguyện với bảy vị Phật sẽ rất linh ứng. Ba mươi lăm vị Phật trong Hồng Danh Bửu Sám có năng lực lớn làm sạch tội lỗi và sự phá giới (xem Ngày Thứ Sáu, trang…).
    Om Mani Padme Hum !

  10. #90
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    PHẦN HAI NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ _ Ngày thứ tư
    __________________________________________________ ______________________________________


    Chư Phật lại vây quanh bằng những vị Bồ tát, như năm vị pháp tử kề cận nhất của Đức Thích Ca Mâu Ni: Văn Thù, Kim cương thủ v.v… (xem trang…). Họ có hình những vị Thần nam tánh.

    Các vị Bồ tát được vây quanh bởi những vị Độc giác Phật như 12 vị Duyên giác. Độc giác lại được vây quanh bằng Thanh văn - mười sáu trưởng lão A la hán (xem trang…) vân vân. Tất cả những vị này có hình thầy tu, hiển bày những đức tính của tịnh giới như cầm bình bát, tích trượng và Kinh chép trên lá bối. Thanh văn khác với Độc giác ở chỗ nhục kế của họ ít nhô cao. Kỳ thực, nhóm này hiện tướng giống như tướng hảo của chư Phật.

    Những vị Thanh văn được vây quanh bởi những nam thần (dakas) và nữ thần (dakinìs) như Khandakapàla và Prachandàli. Họ có hình dạng giống như mô tả trong mật điển Heruka. Những nam thần nữ thần được vây quanh bằng những hộ pháp siêu thế, cốt tử là những chúa tể của Pháp thuộc ba phạm vi của đức Mahàkala sáu tay, Vaishravana và Kamayama

    Có hai truyền thống khẩu quyết liên hệ bốn vị đại vương thuộc bốn hướng. Một truyền thống đặt họ trên tòa chính, truyền thống kia cho họ đứng trên gối mây ở dưới tòa chính. Lý do như sau: Truyền thống thứ nhất xem họ như những hình tượng phi phàm; truyền thống thứ hai xem họ như những người thế tục. Thật sai lầm khi để vào đồ hình quán tưởng này những hình tượng thế tục không đáng kể như các Ma vương. Có lần Lama Tsechogling Rinpoche, một thầy giáo đạo cho những vị Đức Dalai Lamas, trông thấy một đồ hình phước điền kiểu ấy. Nghệ sĩ đã họa hình Ma vương trong số những Thần hộ pháp. Rinpoche chỉ tay vào hình ấy mà bảo, “Chẳng thà họa một viên bảo châu như ý thay chỗ cho vị này!”

    Quán tưởng những quyển Kinh bằng lá bối ở trước mỗi hình tượng trong pháp quán quy y này. Kinh sách tự bản chất đã là châu báu của Pháp sở chứng, dưới hình thức những quyển Kinh. Đó là pháp được truyền lại. Những quyển Kinh được bọc lại trong lụa và có đóng dấu màu sặc sỡ. Hãy quán tưởng Kinh sách ấy dạy những Pháp cho bạn bằng cách nói lên những chân lý chứa đựng trong đó.

    Có nhiều bản khác nhau về cách quán quy y. Một truyền thống trình bày tất cả Ba ngôi báu thể nhập trong một hình duy nhất là bậc Đạo sư; những truyền thống khác thì trình bày nhiều hình đứng trên những bực khác nhau theo hình ngang. Tuy vậy những mô tả trên đây đã có đủ mọi điều cần thiết đến Ba ngôi báu. Nhưng điều cần chú ý là, phép quán tưởng này không phải là theo không gian hai chiều như nhìn một bức họa. Những hình ảnh trong đó cũng phải chắc nịch như tượng bằng đất sét: đó là những hình hài như ráng cầu vồng mà bản chất là ánh sáng trong suốt rực rỡ. Họ đứng đấy nguyên vẹn toàn thân tỏa ra ánh sáng. Trong quyển Sự Truyền Thừa Tạng Luật ta tìm thấy ba hình ảnh ca tụng Thân Giác ngộ như sau:

    Giống như một ngọn lửa có dạng hình người. Giống như cái gì đầy cả những cái lưỡi bằng lửa rực rỡ. Giống như một cái bình chứa bằng vàng ròng đặt trên một ngọn đèn dầu. Những hình người ấy đang thảo luận pháp với nhau. Quả thế, có nhiều hoạt động đang diễn ra: một vài vị đang đến trong khi những vị khác đang bỏ đi để làm những công việc khác. Có những cuộc đến và đi, hệt như cảnh những viên chức triều đình đang tấp nập vào ra các cổng của một Hoàng cung. Những hình ảnh ấy - từ Thích Ca Mâu Ni cho đến những đại vương - như tỏa ra những hóa thân bằng ánh sáng để cứu độ các hữu tình, trong khi có những hóa thân khác đang thể nhập vào trở lại bản thân. Mỗi lỗ chân lông của hình ấy cũng là một cõi Phật, vân vân. Sự quán tưởng nên thực hành càng chi tiết càng hay.
    Om Mani Padme Hum !

  11. The Following User Says Thank You to hoangtri For This Useful Post:

    vietlong (11-01-2019)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Lời za patrul rinpoche !
    Gửi bởi hoamacco trong mục MẬT TÔNG
    Trả lời: 183
    Bài cuối: 02-01-2020, 07:38 AM
  2. Oan gia nghiệp báo
    Gửi bởi tinhnghiep trong mục Luân hồi - Nhân quả báo ứng
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 08-07-2019, 07:27 AM
  3. Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan
    Gửi bởi Tuệ Thức trong mục Kinh
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-24-2019, 04:14 AM
  4. Thầy THÍCH THANH TỪ, Thầy cũ của Thích Chân Quang lên tiếng
    Gửi bởi lamebay trong mục Video liên quan Phật giáo
    Trả lời: 0
    Bài cuối: 06-17-2019, 01:25 PM
  5. Những giai thoại trong nhà Thiền
    Gửi bởi hoatihon trong mục THIỀN TÔNG
    Trả lời: 4
    Bài cuối: 08-25-2018, 08:37 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •