Đại Thủ ẤnKẾT LUẬN__________________________________________________ ______________________________________
KẾT LUẬN
Lợi ích của Ðại Thủ Ấn và Thập Ðịa Bồ Tát
Trước tiên nói về lợi ích của các pháp dự bị tu tập, nền tảng của con đường giác ngộ và sự tái sanh trong nhàn cảnh.
Quán chiếu về sự may mắn có được thân người (đầy đủ lục căn) cũng như về cái chết và vô thường sẽ kéo ta ra khỏi những cám dỗ của cuộc đời. Suy nghĩ về nghiệp báo và luật nhân quả giúp ta thấy rõ đâu là thiện ác và như vậy ta sẽ cố gắng giữ giới thanh tịnh. Quán sát về đau khổ luân hồi giúp ta nhàm chán ba cõi. Có nhàm chán thì chí nguyện giải thoát mới kiên cố. Thiền quán về tình thương, từ bi khiến Bồ Ðề Tâm tăng trưởng, cầu thành Phật độ khắp chúng sanh.
Tu tập Kim Cang quán, năng trì chú 100 chủng tự, sẽ gặt hái được nhiều điềm báo ứng bên ngoài hoặc trong chiêm bao, chứng nhận rằng nghiệp chướng đã tạo trong quá khứ được tiêu trừ. Cúng dường Mạn Ðà La, thân thể trở nên nhẹ nhàng, tâm thần sáng suốt, muốn ít, biết đủ, tích tụ công đức không thể tính đếm. Thiền quán Bổn Sư Du Già làm tăng trưởng lòng tin kính vị Thầy (Lama), nhờ đó sẽ cảm nhận được sự gia hộ giúp ta khai triển kinh nghiệm chánh kiến và Thiền Ðịnh. Sự tu tập có đứng đắn và tiến bộ hay không đều tùy thuộc vào lòng tin kính đối với vị Thầy.
Về phần tu tập chính yếu, lợi ích của Thiền Ðịnh giúp ta khai triển, chứng đạt ba đặc tính: an lạc, sáng suốt và vô niệm. Lòng ham muốn về vật chất (quần áo, thức ăn, v.v...) giảm dần. Có thể đắc nhiều loại thần thông và ngũ nhãn.
Những ý niệm vi tế, tán loạn bị mờ dần dưới ánh sáng của định lực, tựa như những ngôi sao dưới ánh sáng mặt trời.
Ngũ nhãn gồm: 1) Nhục nhãn, thấy được cảnh vật ở xa trước mắt, 2) Thiên nhãn, thấy được sự tái sinh trong quá khứ, vị lai, 3) Huệ nhãn, thấy rõ, trực nhận được Không tánh, 4) Pháp nhãn, thấy được căn tánh của mỗi chúng sanh cùng giáo pháp thích ứng để độ họ, 5) Phật nhãn, thấy rõ tất cả các pháp, tức Nhất thiết chủng trí.
Về Thiền Quán, kết quả lợi ích thâu thập được tùy thuộc vào căn tánh của hành giả. Với hàng thượng căn thì Thiền Quán giúp họ trực chỉ, trực đáo Bồ Ðề. Hàng trung căn thì có lúc đi thẳng một mạch có lúc lại đi theo thứ tự. Hàng hạ căn thì tiến bước từ từ theo thứ tự Sơ phát tâm cho đến Thập Ðịa Bồ Tát, tùy theo cách phát triển 12 (4 lần 3) phép quán Du Già (Yoga).
Năm con đường (ngũ đạo)[1] và mười cảnh giới (Thập Ðịa) của Bồ Tát dẫn đến Chánh Giác (Phật quả) có thể được chia theo nhiều cách, hoặc chứng đạt với nhiều phương thức khác nhau. Các phương thức tổng quát được tìm thấy ở các trường phái Phật giáo cổ Ấn và Tạng mật. Theo ngài Gampopa trong "Ngọc báu trang nghiêm giải thoát" thì hệ thống trên được chia làm 13 giai đoạn: giai đoạn (sơ) phát tâm, giai đoạn thành khẩn mong cầu, 10 giai đoạn Thập Ðịa Bồ Tát và Phật Ðịa. Trong trường phái "Ðại Thành Tựu" (Maha-Ati, Dzogtchen) lại chia theo cách khác, nhưng ở đây theo Ðại Thủ Ấn, ngũ đạo và Thập Ðịa được chia theo 12 pháp Du Già. Dù được phân chia khác nhau nhưng nền tảng căn bản và kết quả chứng đắc vẫn là một.
(Thông thường, khi đắc định, tức đạt được trạng thái an tịnh tâm), ta có thể tùy ý trụ trong trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm bất cứ lúc nào. Tuy vậy, có nhiều lúc 3 trạng thái trên không xảy đến trong khi Thiền Ðịnh và ngược lại, khi không cố ý Thiền Ðịnh thì nó lại xảy đến. Ta chưa hoàn toàn làm chủ được sự "tập trung vào một điểm". Ðây là trình độ sơ cấp của Thiền Ðịnh. Nếu ta đạt được tâm an tịnh, không bị xao lãng bởi ngoại duyên và bất cứ lúc nào Thiền Ðịnh, 3 trạng thái trên cũng đều hiện khởi. Làm chủ được sự "tập trung vào một điểm", đây là trình độ trung cấp của Thiền Ðịnh.
An trú tập trung không gián đoạn, không xao lãng, ngay cả trong trường hợp khẩn cấp, ý niệm vẫn bình lặng, trong tất cả các thời, hành vi, cử động và ngay trong giấc ngủ, tâm vẫn an trú không rời trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm, đây là trình độ thượng cấp của Thiền Ðịnh.

Trả lời với trích dẫn