Đại Thủ Ấn
THIỀN QUÁN
__________________________________________________ ______________________________________


Vài lời về cách trình bày

Phần chính của tập sách này, nói về Thiền Ðịnh và Thiền Quán, đến đây coi như chấm dứt. Ban đầu, tập trung tâm ý vào sự quán tìm bổn tánh, sau đó dần dần sẽ nhận ra nó, tùy theo sự phát hiện thứ lớp của kinh nghiệm thiền tập. Ðây là những điều kiện, nguyên nhân tương quan tương duyên không thể tách rời. Có nhiều tập sách khác, trong sự khai thị được trình bày theo sự hiểu biết của mỗi người. Riêng về tập sách này, tôi đã trình bày sự khai thị theo bốn cách quán chiếu, rút tỉa từ những kinh nghiệm tu tập thực chất. Mỗi hành giả cần phải thấu hiểu và áp dụng tùy theo sự tiến bộ cũng như chứng đạt của mình. Nếu được khai thị ngay từ đầu về tánh của tâm (trước khi chín muồi), ta sẽ sinh chán nản. Nếu chán nản thì kinh nghiệm và chánh kiến rất khó phát triển, in sâu vào tâm khảm. Ðể tránh trường hợp (nguy hiểm) này, tôi đã trình bày theo thứ lớp.


-------------------

[1] Huit attitudes mondaines: Hán Việt thường dịch là "bát phong".

[2] Về ý niệm có thể chia làm hai loại:

[3] Vacuité thường được dịch là tánh Không, nhưng ở đây tôi dịch là "tánh rỗng lặng" vì tánh Không trừu tượng và hay gây nhiều hiểu lầm

[4] Claire lumière. Trong Mật giáo Tây Tạng thường dùng những danh từ như Thanh Quang (Claire lumière mère), Tử Quang (Claire lumière fille) để nói về kiến tánh.

[5] Một đại hành giả Du Già Tây Tạng, cũng là nhị Tổ của phái áo vải (Kagyupa) nổi tiếng là đã đạt được giác ngộ (hoàn toàn) ngay trong một đời, nhờ sự tu hành khổ hạnh, tinh tấn trên vùng tuyết lạnh của Hy Mã Lạp Sơn.