DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 39

Chủ đề: Đại Thủ Ấn

  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Quy y, lễ lạy và Bồ Ðề Tâm
    __________________________________________________ ______________________________________



    Ta đọc tiếp: "Từ nay cho đến ngày giác ngộ, con xin quy y Phật, Pháp, chư hiền thánh Tăng...". Cùng lúc ta suy nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh đều đã là cha mẹ con, con xin quy y và phát triển tâm Bồ Ðề". Sau đó ta quán tưởng về Tứ Vô Lượng Tâm.

    Tứ Vô Lượng Tâm là nguyện cho tất cả chúng sinh:

    1) đều được an vui hạnh phúc và tạo nhiều căn lành;

    2) đều thoát khỏi đau khổ và ngưng tạo điều ác;

    3) được sống trong thương yêu và hòa thuận;

    4) đều có tâm bình đẳng, không thương người thân, ghét kẻ thù.


    Cuối cùng, quán tưởng rằng tất cả đối tượng quán chiếu (sở quán) đều tan biến thành ánh sáng (hào quang) thấm nhập vào ta và giòng tâm thức[1] của ta trở nên thanh tịnh.

    Sau mỗi thời khóa quy lạy, hãy quán tưởng làm tan biến tất cả hình tướng của Cây Lịch đại Tổ Sư thành hào quang thấm nhập vào ta và đưa ta vào trạng thái bất nhị trống rỗng, trong suốt, không còn dính mắc vào một khái niệm hiện hữu nào nữa. Hãy trụ trong "bây giờ và ở đây", và cảm tưởng rằng ta hoàn toàn thanh tịnh.

    Ðến đây chấm dứt phần dự bị tu tập thứ nhất: quy lạy và phát triển tâm Bồ Ðề.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Quy y, lễ lạy và Bồ Ðề Tâm
    __________________________________________________ ______________________________________



    Vajrasattva[2], Tạng ngữ: Dorjé Sempa, là một hóa thân của chư Phật dùng để thanh lọc giải trừ đau khổ, phiền não, quả báo của những nghiệp xấu, ác đã tạo. Hóa thân này có thể xuất hiện dưới nhiều hình tướng: hiền từ hoặc dữ tợn như Héruka Vajrasattva, đơn độc hoặc với một nữ phối. Sau đây là một phương thức tu tập với hóa thân Vajrasattva đơn độc.

    Quán tưởng trên đầu ta, có Thầy Bổn Sư (Lama) dưới hình tướng Vajrasattva, toàn thân màu trắng, tay phải cầm một kim cang chùy (vajra) ngang giữa ngực, tay trái cầm một cái chuông ngang hông. Ðầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

    Quán tưởng trên đảnh đầu chủng tự PAM. Sau đó chủng tự này biến thành một hoa sen trắng, ở trên có chủng tự AH, từ chữ AH xuất hiện một vành trăng tròn, ở trên có chữ HUM, chữ này từ từ biến thành một kim cang chùy 5 đỉnh, và ở giửa chùy kim cang này lại có một chữ HUM. Từ chữ HUM này phát ra nhiều đạo hào quang rồi sau đó lại thu trở về hai lần: lần thứ nhất, những hào quang này hóa hiện ra muôn ngàn trân châu quý báu cúng dường chư Phật, Bồ Tát; lần thứ hai, những hào quang này tiêu trừ tất cả đau khổ của chúng sinh.

    Tiếp theo, kim cang chùy biến hình thành Vajrasattva như đã tả ở trên. Chân trái gấp lại, bàn chân đụng dưới đùi phải, và chân phải hơi duỗi xuống dưới. Ở giữa ngực có một vành trăng với một chữ HUM trắng ở trên.

    Vajrasattva có một bài chú 100 chủng tự và một bài 6 chủng tự. Những chủng tự này thường được quán chiếu theo nhiều cách: hoặc theo chiều kim đồng hồ, hoặc ngược lại, hoặc quay tròn hoặc đứng yên. Riêng trong phép quán này, ta phải tụng 100.000 lần bài chú 100 chủng tự, những chủng tự này màu trắng bất động, được sắp chung quanh vành trăng theo chiều ngược của kim đồng hồ.


    Sau khi quán tưởng như trên, ta tụng: "Nam Mô Vajrasattva, con thành khẩn xin ngài giải trừ tất cả chướng duyên và quả báo của những nghiệp xấu mà con đã tạo trong quá khứ". Ta cần phải phát lồ sám hối và quán niệm về bốn điều hóa giải (lỗi lầm).

    Ðiều thứ nhất, nhớ tưởng lại những lỗi lầm đã tạo và thành tâm ăn năn. Thứ hai, nguyện không bao giờ tái phạm. Thứ ba, ghi nhớ những điều tốt như quy y, Bồ Ðề Tâm, giữ giới... Thứ tư, thực hành những pháp thanh lọc, sám hối như Kim Cang quán để tiêu trừ nghiệp chướng. Nếu không hội đủ bốn điều trên thì sự sám hối chỉ là hào nhoáng bề ngoài.

    Tiếp theo quán tưởng một nước cam lồ trắng chảy từ ngón chân cái bên phải của Vajrasattva, xuống tới đảnh đầu và chảy khắp toàn thân ta. Cùng lúc đó, tất cả những chướng duyên, nghiệp báo đều bị tống khứ, và toàn thân ta chỉ còn là cam lồ.

    Nước cam lồ này bắt nguồn từ chữ HUM và bài chú 100 chủng tự nằm trên vành trắng ở ngực Vajrasattva, chảy xuống thấm vào thân ta.

    Quán tưởng rằng từ những lỗ chân lông và chín khứu của ta, những chướng duyên thoát ra ngoài như mồ hôi và nhựa đen; bệnh tật, ốm đau thoát ra ngoài như máu mủ; tà ma, quỷ ếm, như rắn, bò cạp, nhện độc và sâu bọ. Tất cả đều chảy ra ngoài và thấm xuống đất. Bấy giờ toàn thân ta chỉ còn lại nước cam lồ trắng và hào quang.

    Ta hãy quán tưởng tất cả chúng sinh cũng đều có một vị Vajrasattva ở trên đầu và đang lãnh nhận sự thanh lọc như ta.

    Hài lòng, vị Bổn Sư (Vajrasattva) biến thành hào quang (rồi nhập vào ta), và quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ta và của Vajrasattva nhập một không khác. Tất cả nghiệp chướng lúc này thảy đều được tiêu trừ.

    Ðến đây kết thúc phần dự bị tu tập thứ hai: quán tưởng về Vajrasattva và trì tụng thần chú.


    Om Mani Padme Hum !

  3. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Cúng dường Mạn Ðà La
    __________________________________________________ ______________________________________



    Cúng dường Mạn Ðà La

    Thông thường, sự cúng dường không có nghĩa là làm vui lòng hay lấy điểm với bề trên, nó thể hiện lòng dâng hiến toàn vẹn cho sự giác ngộ, đại diện bởi các bậc Thầy và ngôi Tam Bảo; đồng thời cũng giúp cho ta gặt hái được nhiều công đức và lợi lạc. Khi ta gieo những hạt giống vào một cánh đồng, chính ta sẽ là người hưởng lợi chứ không phải cánh đồng. Sự cúng dường đến ngôi Tam Bảo cũng giống như vậy.

    Có nhiều loại Mạn Ðà La. Những cảnh lâu đài thiên cung, nơi cư ngụ của các vị Bồ Tát, Hộ Pháp, được xem là một loại. Ðó là những kiểu mẫu thường thấy trên tranh ảnh (thangka). Riêng Mạn Ðà La dùng ở đây thuộc loại cụ thể, cấu tạo bằng một nền phẳng với những vòng tròn, gạo, hạt cây hoặc ngọc báu, tất cả tượng trưng cho toàn thể vũ trụ.


    Quán tưởng trên hư không trước mặt, có một lâu đài Mạn Ðà La vĩ đại. Ở trung tâm là vị Bổn Sư (dưới hình dạng Vajradhara), phía trước ngài là những vị Thần Linh Quán[3], bên phải là chư Phật, đằng sau là tam tạng giáo điển, và bên trái là toàn thể Tăng Già. Ðây là Mạn Ðà La sơ khởi, đối tượng của sự cúng dường.

    Tiếp theo ta cấu tạo một Mạn Ðà La khác với những dụng cụ nhỏ đặc biệt, và tụng lên bài kệ cúng dường.


    Dùng một cái dĩa bằng phẳng làm nền tảng cho Mạn Ðà La (vật cúng dường). Một tay cầm dĩa, tay kia lau mặt dĩa và tụng bài chú 100 chữ của Vajrasattva để tẩy trừ mọi lậu hoặc. Sau đó, nhỏ một giọt nước (trong và thơm) lên trên tượng trưng cho Bồ Ðề Tâm hướng và lòng đại bi. Tiếp theo, đặt một cái vòng thứ nhất lên mặt dĩa và đổ đầy những hạt gạo, đậu, v.v..., ở bốn góc một vài hạt kim cương, ngọc báu[4]; sau khi đổ đầy vòng thứ nhất, tiếp tục như vậy cho đến vòng nhỏ cuối cùng, và đặt trên vòng này một bảo vật. Ðây là sự cúng dường cụ thể tượng trưng bên ngoài.

    Trong lúc cấu tạo Mạn Ðà La để cúng dường bên ngoài, ta đọc lên bài kệ thích hợp. Ðọc đến đâu, quán tưởng đến đó, đây thuộc về ý cúng dường. Vật mà ta cúng dường tượng trưng cho toàn vũ trụ, thường được miêu tả trong giáo lý A Tỳ Ðàm (Abhidharma).

    Vũ trụ thường được miêu tả dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ trường hợp, vì căn cơ và nghiệp báo của thính chúng không đồng, nên khiến mỗi người thấy sự vật khác nhau. Riêng theo sự miêu tả ở đây thì có một dãy đất bằng huỳnh kim, chung quanh bao bọc bởi những bức tường sắt, bên ngoài là biển mặn. Bên trong bức tường, ở bốn góc có bốn châu (lục địa), mỗi châu lại nằm giữa một đại dương. Từ mỗi châu tiến dần vào trung tâm điểm gồm có bảy vòng đai xen kẽ với bảy núi vàng và bảy hồ thanh lương. Ở trung tâm điểm là núi Tu Di (Suméru), hình vuông giống bửu tháp (stupa) bốn tầng. Mặt núi phương đông bằng ngọc pha lê trắng, phương nam bằng ngọc lưu ly, phương tây bằng ngọc hồng bào và phương bắc bằng ngọc bích. Bầu trời và mặt biển ở bốn phía đều mang cùng màu tương hợp với ngọc núi. Lục địa (châu) phương đông hình bán nguyệt, mặt thẳng đối diện núi Tu Di, lục địa phương nam hình thang, lục địa phương tây hình tròn và lục địa phương bắc hình vuông.

    Quả đất chúng ta đang ở thuộc phương nam (Nam Thiện Bộ Châu), biển và bầu trời màu xanh lơ. Những châu còn lại (đông, tây, bắc), ta không thể đến được bằng tàu bay hay phi thuyền, trừ khi ta tạo những nghiệp tương ưng với các chúng sinh ở đó.

    Bài kệ mà ta phải lập lại 100.000 lần trong lúc thược hành pháp này là: "Hướng về tất cả các cõi Tịnh Ðộ của chư Phật, con xin cúng dường Mạn Ðà La này, làm bằng hoa, dầu thơm, trầm hương, trang hoàng với núi Tu Di, tứ châu và nhật nguyệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh về các cõi Tịnh Ðộ."


    Bằng sự cúng dường này, ta sẽ tích tụ được hai thứ: phước đức và trí huệ.

    Sau khi cúng dường xong, quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát trong Mạn Ðà La đối tượng, tan biến thành hào quang và thấm nhập vào ta.

    Cúng dường Mạn Ðà La cụ thể và ý tưởng giúp ta gặt hái nhiều công đức. Cùng lúc đó, ta phải quán chiếu luôn về tánh Không của các pháp, tức năng cúng và sở cúng đều trống rỗng, không có thực tánh, nhờ đó trí huệ sẽ tăng trưởng. Tích tụ công đức dẫn đến sự thành tựu Hóa thân (Nirmanakaya) và Báo thân (Sambhogakaya). Những chúng sinh tu hành nhiều đời, gieo tạo căn lành có thể thấy được Hóa thân Phật. Riêng Báo thân Phật, chỉ có hàng đại Bồ Tát, những vị đã thực sự trực nghiệm tánh Không (Sunyata) mới thấy được. Tích tụ Trí Huệ (Bát Nhã) dẫn đến sự chứng đạt Thể Tánh thân (Svabhavakaya) và Pháp thân (Dharmakaya). Theo ý nghĩa tập luận ở đây thì Thể Tánh thân chính là nhất thiết trí của Phật, còn Pháp thân là tổng tánh bất dị của ba thân trước. Tuy nhiên. ở vài nơi khác, sự định nghĩa của hai thân này có thể đổi ngược, nhưng thường thì chỉ có Pháp thân là hay được đề cập đến.

    Ðến đây chấm dứt phần dự bị tu tập thứ ba: cúng dường Mạn Ðà La.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bổn Sư Du Già

    Bài dự bị tu tập chót nhằm mục đích tích tụ công đức và sự gia hộ hay ban phép lành của chư Tổ. Ðó là Guru Yoga.

    Ở đây ta phải quán tưởng ta dưới hình dạng của một Thần Linh Quán (divinité de méditation).


    Quán tưởng ở phía trên đầu là vị Bổn Sư (Lama racine) hiện dưới hình dạng thông thường hoặc của một Thần Linh Quán. Sau đó tất cả chư Tổ của giòng truyền (lignage) ngược trở lên cho đến đức Phật Vajradhara đều ngồi theo một hàng dọc hoặc chung quanh trên đầu vị Bổn Sư. Tiếp theo ta hướng về chư vị đó và cầu nguyện với lòng thành khẩn, tôn kính chân thật vô biên.

    Khi lòng thành khẩn của ta tăng trưởng đến mức tột cùng, hãy giữ nguyên trạng thái đó và bắt đầu quán tưởng chư Phật, Bồ Tát, chư Thần Dakas, Dakanis, Hộ Pháp, Hộ Mạng, chư Tổ đều tan nhập vào vị Bổn Sư. Vị Bổn Sư lúc đó phải được xem là hóa thân của tất cả các vị trên.


    Có nhiều loại Thần Linh Quán, đối tượng của Guru-yoga. Ta có thể quán tưởng vị Bổn Sư dưới hình dạng thông thường hoặc hình dạng Vajradhara, Marpa, Milarépa, Gampopa, Karmapa, v.v...

    Tiếp theo, thực hiện sự cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như bài Kinh "Thất Nguyện" (Septuple Puja).

    Bài Kinh Thất Nguyện gồm: 1) Lễ lạy, 2) Cúng dường, 3) Sám hối, 4) Tùy hỷ công đức, 5) Thỉnh quý Thầy giảng pháp, 6) Thỉnh quý Thầy trụ thế, 7) Hồi hướng công đức.

    Khởi tâm trở về nương tựa Tam Bảo, củng cố tâm Bồ Ðề và cầu nguyện như sau: "Tất cả chúng sinh (là cha mẹ quá khứ) số lượng như hư không, xin hướng về Bổn Sư hiện thân của tam thân Phật, hãy từ bi ...".

    Bài cầu nguyện trên dạy rằng phải quán tưởng vị Bổn Sư không khác đức Phật, hiện thân của Tam Bảo. Thân của ngài tiêu biểu cho Tăng Già, lời của ngài là Giáo Pháp và tâm của ngài là chư Phật. Thân, ngữ, ý của Phật chính là Tam Bảo và cũng không khác tam thân Phật. Bài tụng trên có thể được lập đi lập lại 100.000 lần hoặc hơn. Thông thường hành giả cũng tụng thêm bài kệ sáu câu của ngài Karmapa đệ nhất và một triệu lần bài chú của ngài: "Con thành tâm cầu nguyện đến ngài, vị Thầy tôn kính. Xin ngài gia hộ cho con khiến:

    1) Tâm con không còn chấp chặt vào một cái "Ta thường hằng".

    2) Giòng tâm thức của con có khả năng thấy rằng tất cả ý tưởng thế gian đều là ảo ảnh.

    3) Tất cả ý nghĩ trái ngược Phật pháp đều ngưng khởi.

    4) Con hiểu rằng bổn tâm vốn bất sanh (diệt).

    5) Tất cả thành kiến sai lầm (nhị biên) đều tiêu tan.

    6) Con thấu triệt các pháp đều là Pháp thân."


    Om Mani Padme Hum !

  5. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Sau đó vị Thầy (Lama) tan nhập vào ta. Quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ngài và Tâm ta trở thành một, không hai, không khác. Hãy trụ trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng tốt.

    Sau khi tụng chú xong, quán tưởng vị Bổn Sư đang truyền cho ta bốn phép điểm đạo Mật giáo (initiations tantriques):

    Trước hết từ trán vị Bổn Sư, một hào quang trắng phóng ra bay vào trán ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc thân nghiệp. Ðây là điểm đạo sơ khởi, giúp ta tu tập các pháp trong giai đoạn tăng trưởng và gieo những chủng tử của sự thành tựu Hoá thân.

    Từ cổ vị Bổn Sư, một hào quang đỏ phóng ra bay vào cổ ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc khẩu nghiệp. Ðây là điểm đạo bí mật, giúp ta quán chiếu về giai đoạn thành tựu các pháp dẫn chuyển những luồng khí lực vi tế trong thân và gieo những chủng tử của Báo thân.

    Từ tim vị Bổn Sư, một hào quang xanh lơ phóng ra bay vào tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc ý nghiệp. Ðây là điểm đạo trí huệ, giúp ta tiến tu các pháp siêu nhập và gieo những chủng tử của Pháp thân.

    Cuối cùng, cả ba hào quang trắng, đỏ, xanh từ ba nơi trên người vị Bổn Sư đồng phóng ra bay vào trán, cổ, và tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não của ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ðây là điểm đạo linh âm tối thắng, giúp ta thành tựu Ðại Thủ Ấn, hay giai đoạn vô tướng và gieo những chủng tử của Thể tánh thân.

    Sau lễ điểm đạo, tất cả chư Tổ của hệ phái tan nhập vào vị Bổn Sư, và vị này cũng tan nhập vào ta.

    Hãy trụ trong trạng thái bất nhị và vô niệm này. Sau đó hồi hướng công đức cầu cho tất cả chúng sinh sớm mau giác ngộ.


    Nếu tinh tấn tu tập pháp này ta sẽ nhận được nhiều sự gia trì, ủng hộ của chư Tổ, khiến ta sớm thâm nhập được Ðại Thủ Ấn.

    Ðến đây kết thúc phần dự bị tu tập đặt biệt của Kim Cang thừa: Bổn Sư Du Già.


    Om Mani Padme Hum !

  6. #6
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Vô thường và sự chết

    Nếu không quán chiếu về vô thường thì tâm sẽ không bao giờ dứt bỏ sự dính mắc cuộc đời. Nếu tâm còn dính mắc thì còn sinh tử luân hồi. "Sự sống của con người luôn luôn bị đe dọa, nó vô thường mỏng manh như hòn bọt trên mặt nước, có thể vỡ tan dưới cơn gió nhẹ. Quả thực là một phép lạ cho chúng ta, sau khi thở ra lại có thể hít vào được một hơi khác, và sau khi ngủ dậy, thấy rằng mình vẫn còn sống." (Nagarjuna, Suhrillekla).

    Tất cả sự vật, do nhân duyên giả hợp, đều vô thường, sự sống của mọi loài cũng vậy. Ta không thể nào biết chắc khi nào ta sẽ chết. Thêm vào đó, khi cái chết đến, ta không thể cầu cứu với ai được, ngoại trừ Phật pháp. Nếu lúc còn sống, ta tự thả trôi theo giòng đời, bám víu vào dục lạc nhất thời, thì chắc chắn không thể nào thoát khỏi nguyên nhân của đau khổ. Vậy ta hãy phát nguyện quán chiếu về sự chết mỗi khi tâm ta chạy theo ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy).


    Tất cả sự vật, là những pháp hiện hữu do nhiều nhân duyên kết tạo, đều vô thường. Tất cả động vật, bất động vật, sinh vật và cảnh vật đều là pháp giả hợp. Một bức tường cứng rắn hôm nay, có thể tiêu tan thành cát bụi ngày mai. Sự sống của ta lại càng mong manh và dễ mất hơn nữa. Không ai dám quả quyết rằng mình sẽ còn sống ngày mai, và một khi chết đến thì ngay cả bạn bè, bà con, bác sĩ, thuốc thang, tiền tài, danh vọng cũng đều bất lực. Chỉ có một điều duy nhất cứu giúp ta được, đó là sự tu hành theo Phật pháp. Nếu sống một đời đạo đức và tạo nhiều việc thiện, ta có thể nhắm mắt chết bình thản, vì biết rằng với một nghiệp thiện, ta sẽ tái sinh nơi nhàn cảnh.

    Không nên dại dột nghĩ rằng thỏa mãn những thú vui thể xác sẽ đem lại cho ta hạnh phúc lâu dài.

    Khi mắt bị thu hút bởi những gì đẹp đẽ và dễ coi ta hãy nghĩ đến cái chết của con thiêu thân lao mình vào lửa, chỉ vì ưa thích ánh sáng. Về khoái lạc thể xác cũng vậy, hãy nghĩ đến những con ong bị nuốt sống bởi cây thằng thảo, vì ưa mùi hương; những con ruồi bị chết ngộp trong hầm phẩn vì ưa thích phân uế; những con cá bị mắc câu vì ham miếng mồi ngon.

    Quán chiếu suy nghĩ về những thí dụ trên sẽ giúp tâm nhàm chán, lìa bỏ dục lạc của thế gian và thấy đó chỉ là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau.

    Ý thức được cái chết có thể đến bất cứ giờ phút nào, sẽ giúp ta tu hành tinh tấn. Hãy tập nhìn đồ ăn và y phục như một tên tử tội, sắp bị đem ra pháp trường, nhìn bữa ăn và bộ quần áo cuối cùng.


    Hãy nhớ lại, bao nhiêu bạn bè, họ hàng người thân của ta đã ra đi? Họ đã ra đi thế nào và bây giờ xác thân của họ còn lại gì? Nghĩ đến họ xong rồi nghĩ lại bản thân ta cũng sẽ chung số phận. Làm sao khởi được trong tâm sự sợ hãi giống như đang bị tên đao phủ lôi ra pháp trường. Khi tâm hoàn toàn nhàm chán tất cả sự vật thế gian, hãy giữ nguyên và trụ tâm ở trạng thái đó. Ðây là bài dự bị tu tập thứ năm: quán chiếu về sự chết và vô thường.

    Phép quán chiếu trên không phải để làm cho ta bi quan chán đời. Nếu quán chiếu rằng: "Tôi sắp chết và chả làm được gì cả!", đây lại là một nguyên nhân của đau khổ, lo âu. Mục đích của phép quán chiếu trên là thúc đẩy ta tu hành tinh tấn và hiểu rõ nghiệp báo hay luật nhân quả có thể ảnh hưởng đến sự tái sinh đời sau. Sau nữa, nó đào luyện cho ta tánh dũng cảm sẵn sàng đối phó với cái chết như người chiến sĩ nơi sa trường.

    "Xưa kia, ta đã rút lui vào núi ẩn tu, chỉ vì ta quá sợ chết. Nhưng ngày hôm nay, cái chết có thể đến, ta không còn sợ hãi nữa, vì ta đã thấy và trở về với chân tánh của tâm[5]." (Djetsun Milarépa).


    Om Mani Padme Hum !

  7. #7
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nghiệp báo và luật nhân quả

    Tiếp theo ta cần sáng suốt biết rõ những gì đáng làm và những gì nên tránh, phù hợp với luật nhân quả. Một người tạo nhân nào thì chính người đó sẽ hưởng quả nấy, đó là luật tự tác tự thọ.

    Phạm mười điều ác sẽ dẫn đến tái sinh trong kiếp sống đau khổ. Những hành động chi phối bởi tam độc, tùy theo nặng, trung bình, nhẹ, sẽ dẫn đến tái sinh nơi Địa ngục, Ngạ quỷ, hoặc Súc sinh. Ngược lại những hành động tốt lành, đạo đức, tùy theo làm nhiều, vừa hay ít, sẽ dẫn đến tái sinh nơi cõi Vô Sắc, Sắc hoặc cõi trời Dục Giới.

    Do đó ta phải luôn luôn kiểm soát (những hành động qua) ba nghiệp thân, khẩu, ý.


    Theo luật nhân quả thì sự an vui hạnh phúc là kết quả của những hành động thiện hay nghiệp "trắng" (bạch nghiệp), và sự đau khổ là kết quả của những hành động xấu ác hay nghiệp "đen" (hắc nghiệp). Do đó ta cần phải dứt bỏ những hành động xấu ác và phát triển hạnh lành nếu ta muốn đem lại hạnh phúc cho chính ta và mọi người.

    Mười điều ác bao gồm ba điều của thân, bốn của lời nói và ba của tâm ý. Ba điều về thân là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều thuộc lời nói là: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời dụ dỗ và mắng chửi. Ba điều thuộc tâm ý là: tham muốn những gì thuộc sở hữu của kẻ khác, nuôi dưỡng lòng sân hận, và chấp chặt những tà kiến (ý nghĩ sai lầm) như không tin luật nhân quả.

    Không làm mười điều ác kể trên có thể được xem là mười điều thiện. Song le, nếu có tâm nguyện Bồ Tát ta có thể làm mười điều thiện hảo sau đây: cứu sống sinh vật; bố thí; giữ giới và khuyên người khác giữ giới; nói lời chân thật; nói lời hoà giải; đem lại tin yêu; nói lời êm dịu; ít muốn và biết đủ; nuôi dưỡng lòng từ bi; giảng nói chánh kiến.

    Từ bỏ sát sinh, cứu sống mạng người sẽ được trường thọ; ngược lại, tiếp tục giết hại thì mạng căn ngắn ngủi và đầy bệnh tật. Quảng đại bố thí sẽ đưa đến giàu có; trộm cắp dẫn đến nghèo khổ, nạn nhân của bóc lột. Giữ giới thanh tịnh thân thể sẽ được cường tráng, an vui hòa thuận vợ chồng; phá giới, tà dâm, thân thể sẽ bạc nhược, gia đình tan rã. Nói lời chân thật sẽ được tin cậy; nói dối đem lại bất tín. Nói lời hòa giải thì bạn bè luôn luôn thắm thiết; nói lời chia rẽ gây nhiều kẻ thù và sự ganh ghét. Nói lời đứng đắn, không ỷ ngữ sẽ được nghe lại nhiều điều hữu ích; nói xàm hay dụ dỗ sẽ bị nghe lại những điều lẩm cẩm vô ích. Nói lời êm dịu sẽ được kính mến; nói lời hung dữ sẽ bị mắng chửi.

    Nếu biết tự mãn không tham lam, đời sống sẽ cụ túc. Nếu luôn luôn dòm ngó, ham muốn vật sở hữu của người thì muôn đời thiếu thốn. Có lòng từ bi sẽ được đối xử tử tế và kính trọng, ngược lại, độc ác sẽ bị đối xử tệ bạc và nghi ngờ. Giảng nói điều chân chính thì thông minh và trí huệ sẽ tăng trưởng, chấp chặt vào sự hiểu biết sai lầm thì tâm trí sẽ nhỏ hẹp và ngu đần.

    Trên đây kể sơ lược kết quả của những hành động (nghiệp nhân). Có một cách khác đoán biết nghiệp quả tương lai, đó là nhìn vào những động lực thúc đẩy sự tác nghiệp. Nếu hành động tác nghiệp bị chi phối bởi kiêu mạn sẽ dẫn đến tái sinh trong loài Trời; loài A Tu La bởi sự ganh tỵ; loài người bởi sự ham dục; loài Súc sinh bởi sự u mê; loài Quỷ đói bởi sự keo kiệt và loài Địa ngục bởi sự ác độc.


    Sau khi nghiên cứu và học hỏi kỹ lưỡng luật nhân quả và nghiệp báo, ta cố gắng làm nhiều và tăng trưởng điều lành, ngăn chặn và dứt bỏ điều ác. Ðó là bài dự bị tu tập thứ sáu.

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •