DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/4 ĐầuĐầu 1234 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 39

Chủ đề: Đại Thủ Ấn

  1. #11
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Cúng dường Mạn Ðà La
    __________________________________________________ ______________________________________



    Cúng dường Mạn Ðà La

    Thông thường, sự cúng dường không có nghĩa là làm vui lòng hay lấy điểm với bề trên, nó thể hiện lòng dâng hiến toàn vẹn cho sự giác ngộ, đại diện bởi các bậc Thầy và ngôi Tam Bảo; đồng thời cũng giúp cho ta gặt hái được nhiều công đức và lợi lạc. Khi ta gieo những hạt giống vào một cánh đồng, chính ta sẽ là người hưởng lợi chứ không phải cánh đồng. Sự cúng dường đến ngôi Tam Bảo cũng giống như vậy.

    Có nhiều loại Mạn Ðà La. Những cảnh lâu đài thiên cung, nơi cư ngụ của các vị Bồ Tát, Hộ Pháp, được xem là một loại. Ðó là những kiểu mẫu thường thấy trên tranh ảnh (thangka). Riêng Mạn Ðà La dùng ở đây thuộc loại cụ thể, cấu tạo bằng một nền phẳng với những vòng tròn, gạo, hạt cây hoặc ngọc báu, tất cả tượng trưng cho toàn thể vũ trụ.


    Quán tưởng trên hư không trước mặt, có một lâu đài Mạn Ðà La vĩ đại. Ở trung tâm là vị Bổn Sư (dưới hình dạng Vajradhara), phía trước ngài là những vị Thần Linh Quán[3], bên phải là chư Phật, đằng sau là tam tạng giáo điển, và bên trái là toàn thể Tăng Già. Ðây là Mạn Ðà La sơ khởi, đối tượng của sự cúng dường.

    Tiếp theo ta cấu tạo một Mạn Ðà La khác với những dụng cụ nhỏ đặc biệt, và tụng lên bài kệ cúng dường.


    Dùng một cái dĩa bằng phẳng làm nền tảng cho Mạn Ðà La (vật cúng dường). Một tay cầm dĩa, tay kia lau mặt dĩa và tụng bài chú 100 chữ của Vajrasattva để tẩy trừ mọi lậu hoặc. Sau đó, nhỏ một giọt nước (trong và thơm) lên trên tượng trưng cho Bồ Ðề Tâm hướng và lòng đại bi. Tiếp theo, đặt một cái vòng thứ nhất lên mặt dĩa và đổ đầy những hạt gạo, đậu, v.v..., ở bốn góc một vài hạt kim cương, ngọc báu[4]; sau khi đổ đầy vòng thứ nhất, tiếp tục như vậy cho đến vòng nhỏ cuối cùng, và đặt trên vòng này một bảo vật. Ðây là sự cúng dường cụ thể tượng trưng bên ngoài.

    Trong lúc cấu tạo Mạn Ðà La để cúng dường bên ngoài, ta đọc lên bài kệ thích hợp. Ðọc đến đâu, quán tưởng đến đó, đây thuộc về ý cúng dường. Vật mà ta cúng dường tượng trưng cho toàn vũ trụ, thường được miêu tả trong giáo lý A Tỳ Ðàm (Abhidharma).

    Vũ trụ thường được miêu tả dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ trường hợp, vì căn cơ và nghiệp báo của thính chúng không đồng, nên khiến mỗi người thấy sự vật khác nhau. Riêng theo sự miêu tả ở đây thì có một dãy đất bằng huỳnh kim, chung quanh bao bọc bởi những bức tường sắt, bên ngoài là biển mặn. Bên trong bức tường, ở bốn góc có bốn châu (lục địa), mỗi châu lại nằm giữa một đại dương. Từ mỗi châu tiến dần vào trung tâm điểm gồm có bảy vòng đai xen kẽ với bảy núi vàng và bảy hồ thanh lương. Ở trung tâm điểm là núi Tu Di (Suméru), hình vuông giống bửu tháp (stupa) bốn tầng. Mặt núi phương đông bằng ngọc pha lê trắng, phương nam bằng ngọc lưu ly, phương tây bằng ngọc hồng bào và phương bắc bằng ngọc bích. Bầu trời và mặt biển ở bốn phía đều mang cùng màu tương hợp với ngọc núi. Lục địa (châu) phương đông hình bán nguyệt, mặt thẳng đối diện núi Tu Di, lục địa phương nam hình thang, lục địa phương tây hình tròn và lục địa phương bắc hình vuông.

    Quả đất chúng ta đang ở thuộc phương nam (Nam Thiện Bộ Châu), biển và bầu trời màu xanh lơ. Những châu còn lại (đông, tây, bắc), ta không thể đến được bằng tàu bay hay phi thuyền, trừ khi ta tạo những nghiệp tương ưng với các chúng sinh ở đó.

    Bài kệ mà ta phải lập lại 100.000 lần trong lúc thược hành pháp này là: "Hướng về tất cả các cõi Tịnh Ðộ của chư Phật, con xin cúng dường Mạn Ðà La này, làm bằng hoa, dầu thơm, trầm hương, trang hoàng với núi Tu Di, tứ châu và nhật nguyệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh về các cõi Tịnh Ðộ."


    Bằng sự cúng dường này, ta sẽ tích tụ được hai thứ: phước đức và trí huệ.

    Sau khi cúng dường xong, quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát trong Mạn Ðà La đối tượng, tan biến thành hào quang và thấm nhập vào ta.

    Cúng dường Mạn Ðà La cụ thể và ý tưởng giúp ta gặt hái nhiều công đức. Cùng lúc đó, ta phải quán chiếu luôn về tánh Không của các pháp, tức năng cúng và sở cúng đều trống rỗng, không có thực tánh, nhờ đó trí huệ sẽ tăng trưởng. Tích tụ công đức dẫn đến sự thành tựu Hóa thân (Nirmanakaya) và Báo thân (Sambhogakaya). Những chúng sinh tu hành nhiều đời, gieo tạo căn lành có thể thấy được Hóa thân Phật. Riêng Báo thân Phật, chỉ có hàng đại Bồ Tát, những vị đã thực sự trực nghiệm tánh Không (Sunyata) mới thấy được. Tích tụ Trí Huệ (Bát Nhã) dẫn đến sự chứng đạt Thể Tánh thân (Svabhavakaya) và Pháp thân (Dharmakaya). Theo ý nghĩa tập luận ở đây thì Thể Tánh thân chính là nhất thiết trí của Phật, còn Pháp thân là tổng tánh bất dị của ba thân trước. Tuy nhiên. ở vài nơi khác, sự định nghĩa của hai thân này có thể đổi ngược, nhưng thường thì chỉ có Pháp thân là hay được đề cập đến.

    Ðến đây chấm dứt phần dự bị tu tập thứ ba: cúng dường Mạn Ðà La.

    Om Mani Padme Hum !

  2. #12
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bổn Sư Du Già

    Bài dự bị tu tập chót nhằm mục đích tích tụ công đức và sự gia hộ hay ban phép lành của chư Tổ. Ðó là Guru Yoga.

    Ở đây ta phải quán tưởng ta dưới hình dạng của một Thần Linh Quán (divinité de méditation).


    Quán tưởng ở phía trên đầu là vị Bổn Sư (Lama racine) hiện dưới hình dạng thông thường hoặc của một Thần Linh Quán. Sau đó tất cả chư Tổ của giòng truyền (lignage) ngược trở lên cho đến đức Phật Vajradhara đều ngồi theo một hàng dọc hoặc chung quanh trên đầu vị Bổn Sư. Tiếp theo ta hướng về chư vị đó và cầu nguyện với lòng thành khẩn, tôn kính chân thật vô biên.

    Khi lòng thành khẩn của ta tăng trưởng đến mức tột cùng, hãy giữ nguyên trạng thái đó và bắt đầu quán tưởng chư Phật, Bồ Tát, chư Thần Dakas, Dakanis, Hộ Pháp, Hộ Mạng, chư Tổ đều tan nhập vào vị Bổn Sư. Vị Bổn Sư lúc đó phải được xem là hóa thân của tất cả các vị trên.


    Có nhiều loại Thần Linh Quán, đối tượng của Guru-yoga. Ta có thể quán tưởng vị Bổn Sư dưới hình dạng thông thường hoặc hình dạng Vajradhara, Marpa, Milarépa, Gampopa, Karmapa, v.v...

    Tiếp theo, thực hiện sự cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như bài Kinh "Thất Nguyện" (Septuple Puja).

    Bài Kinh Thất Nguyện gồm: 1) Lễ lạy, 2) Cúng dường, 3) Sám hối, 4) Tùy hỷ công đức, 5) Thỉnh quý Thầy giảng pháp, 6) Thỉnh quý Thầy trụ thế, 7) Hồi hướng công đức.

    Khởi tâm trở về nương tựa Tam Bảo, củng cố tâm Bồ Ðề và cầu nguyện như sau: "Tất cả chúng sinh (là cha mẹ quá khứ) số lượng như hư không, xin hướng về Bổn Sư hiện thân của tam thân Phật, hãy từ bi ...".

    Bài cầu nguyện trên dạy rằng phải quán tưởng vị Bổn Sư không khác đức Phật, hiện thân của Tam Bảo. Thân của ngài tiêu biểu cho Tăng Già, lời của ngài là Giáo Pháp và tâm của ngài là chư Phật. Thân, ngữ, ý của Phật chính là Tam Bảo và cũng không khác tam thân Phật. Bài tụng trên có thể được lập đi lập lại 100.000 lần hoặc hơn. Thông thường hành giả cũng tụng thêm bài kệ sáu câu của ngài Karmapa đệ nhất và một triệu lần bài chú của ngài: "Con thành tâm cầu nguyện đến ngài, vị Thầy tôn kính. Xin ngài gia hộ cho con khiến:

    1) Tâm con không còn chấp chặt vào một cái "Ta thường hằng".

    2) Giòng tâm thức của con có khả năng thấy rằng tất cả ý tưởng thế gian đều là ảo ảnh.

    3) Tất cả ý nghĩ trái ngược Phật pháp đều ngưng khởi.

    4) Con hiểu rằng bổn tâm vốn bất sanh (diệt).

    5) Tất cả thành kiến sai lầm (nhị biên) đều tiêu tan.

    6) Con thấu triệt các pháp đều là Pháp thân."


    Om Mani Padme Hum !

  3. #13
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Sau đó vị Thầy (Lama) tan nhập vào ta. Quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ngài và Tâm ta trở thành một, không hai, không khác. Hãy trụ trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng tốt.

    Sau khi tụng chú xong, quán tưởng vị Bổn Sư đang truyền cho ta bốn phép điểm đạo Mật giáo (initiations tantriques):

    Trước hết từ trán vị Bổn Sư, một hào quang trắng phóng ra bay vào trán ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc thân nghiệp. Ðây là điểm đạo sơ khởi, giúp ta tu tập các pháp trong giai đoạn tăng trưởng và gieo những chủng tử của sự thành tựu Hoá thân.

    Từ cổ vị Bổn Sư, một hào quang đỏ phóng ra bay vào cổ ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc khẩu nghiệp. Ðây là điểm đạo bí mật, giúp ta quán chiếu về giai đoạn thành tựu các pháp dẫn chuyển những luồng khí lực vi tế trong thân và gieo những chủng tử của Báo thân.

    Từ tim vị Bổn Sư, một hào quang xanh lơ phóng ra bay vào tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc ý nghiệp. Ðây là điểm đạo trí huệ, giúp ta tiến tu các pháp siêu nhập và gieo những chủng tử của Pháp thân.

    Cuối cùng, cả ba hào quang trắng, đỏ, xanh từ ba nơi trên người vị Bổn Sư đồng phóng ra bay vào trán, cổ, và tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não của ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ðây là điểm đạo linh âm tối thắng, giúp ta thành tựu Ðại Thủ Ấn, hay giai đoạn vô tướng và gieo những chủng tử của Thể tánh thân.

    Sau lễ điểm đạo, tất cả chư Tổ của hệ phái tan nhập vào vị Bổn Sư, và vị này cũng tan nhập vào ta.

    Hãy trụ trong trạng thái bất nhị và vô niệm này. Sau đó hồi hướng công đức cầu cho tất cả chúng sinh sớm mau giác ngộ.


    Nếu tinh tấn tu tập pháp này ta sẽ nhận được nhiều sự gia trì, ủng hộ của chư Tổ, khiến ta sớm thâm nhập được Ðại Thủ Ấn.

    Ðến đây kết thúc phần dự bị tu tập đặt biệt của Kim Cang thừa: Bổn Sư Du Già.


    Om Mani Padme Hum !

  4. #14
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Vô thường và sự chết

    Nếu không quán chiếu về vô thường thì tâm sẽ không bao giờ dứt bỏ sự dính mắc cuộc đời. Nếu tâm còn dính mắc thì còn sinh tử luân hồi. "Sự sống của con người luôn luôn bị đe dọa, nó vô thường mỏng manh như hòn bọt trên mặt nước, có thể vỡ tan dưới cơn gió nhẹ. Quả thực là một phép lạ cho chúng ta, sau khi thở ra lại có thể hít vào được một hơi khác, và sau khi ngủ dậy, thấy rằng mình vẫn còn sống." (Nagarjuna, Suhrillekla).

    Tất cả sự vật, do nhân duyên giả hợp, đều vô thường, sự sống của mọi loài cũng vậy. Ta không thể nào biết chắc khi nào ta sẽ chết. Thêm vào đó, khi cái chết đến, ta không thể cầu cứu với ai được, ngoại trừ Phật pháp. Nếu lúc còn sống, ta tự thả trôi theo giòng đời, bám víu vào dục lạc nhất thời, thì chắc chắn không thể nào thoát khỏi nguyên nhân của đau khổ. Vậy ta hãy phát nguyện quán chiếu về sự chết mỗi khi tâm ta chạy theo ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy).


    Tất cả sự vật, là những pháp hiện hữu do nhiều nhân duyên kết tạo, đều vô thường. Tất cả động vật, bất động vật, sinh vật và cảnh vật đều là pháp giả hợp. Một bức tường cứng rắn hôm nay, có thể tiêu tan thành cát bụi ngày mai. Sự sống của ta lại càng mong manh và dễ mất hơn nữa. Không ai dám quả quyết rằng mình sẽ còn sống ngày mai, và một khi chết đến thì ngay cả bạn bè, bà con, bác sĩ, thuốc thang, tiền tài, danh vọng cũng đều bất lực. Chỉ có một điều duy nhất cứu giúp ta được, đó là sự tu hành theo Phật pháp. Nếu sống một đời đạo đức và tạo nhiều việc thiện, ta có thể nhắm mắt chết bình thản, vì biết rằng với một nghiệp thiện, ta sẽ tái sinh nơi nhàn cảnh.

    Không nên dại dột nghĩ rằng thỏa mãn những thú vui thể xác sẽ đem lại cho ta hạnh phúc lâu dài.

    Khi mắt bị thu hút bởi những gì đẹp đẽ và dễ coi ta hãy nghĩ đến cái chết của con thiêu thân lao mình vào lửa, chỉ vì ưa thích ánh sáng. Về khoái lạc thể xác cũng vậy, hãy nghĩ đến những con ong bị nuốt sống bởi cây thằng thảo, vì ưa mùi hương; những con ruồi bị chết ngộp trong hầm phẩn vì ưa thích phân uế; những con cá bị mắc câu vì ham miếng mồi ngon.

    Quán chiếu suy nghĩ về những thí dụ trên sẽ giúp tâm nhàm chán, lìa bỏ dục lạc của thế gian và thấy đó chỉ là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau.

    Ý thức được cái chết có thể đến bất cứ giờ phút nào, sẽ giúp ta tu hành tinh tấn. Hãy tập nhìn đồ ăn và y phục như một tên tử tội, sắp bị đem ra pháp trường, nhìn bữa ăn và bộ quần áo cuối cùng.


    Hãy nhớ lại, bao nhiêu bạn bè, họ hàng người thân của ta đã ra đi? Họ đã ra đi thế nào và bây giờ xác thân của họ còn lại gì? Nghĩ đến họ xong rồi nghĩ lại bản thân ta cũng sẽ chung số phận. Làm sao khởi được trong tâm sự sợ hãi giống như đang bị tên đao phủ lôi ra pháp trường. Khi tâm hoàn toàn nhàm chán tất cả sự vật thế gian, hãy giữ nguyên và trụ tâm ở trạng thái đó. Ðây là bài dự bị tu tập thứ năm: quán chiếu về sự chết và vô thường.

    Phép quán chiếu trên không phải để làm cho ta bi quan chán đời. Nếu quán chiếu rằng: "Tôi sắp chết và chả làm được gì cả!", đây lại là một nguyên nhân của đau khổ, lo âu. Mục đích của phép quán chiếu trên là thúc đẩy ta tu hành tinh tấn và hiểu rõ nghiệp báo hay luật nhân quả có thể ảnh hưởng đến sự tái sinh đời sau. Sau nữa, nó đào luyện cho ta tánh dũng cảm sẵn sàng đối phó với cái chết như người chiến sĩ nơi sa trường.

    "Xưa kia, ta đã rút lui vào núi ẩn tu, chỉ vì ta quá sợ chết. Nhưng ngày hôm nay, cái chết có thể đến, ta không còn sợ hãi nữa, vì ta đã thấy và trở về với chân tánh của tâm[5]." (Djetsun Milarépa).


    Om Mani Padme Hum !

  5. #15
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nghiệp báo và luật nhân quả

    Tiếp theo ta cần sáng suốt biết rõ những gì đáng làm và những gì nên tránh, phù hợp với luật nhân quả. Một người tạo nhân nào thì chính người đó sẽ hưởng quả nấy, đó là luật tự tác tự thọ.

    Phạm mười điều ác sẽ dẫn đến tái sinh trong kiếp sống đau khổ. Những hành động chi phối bởi tam độc, tùy theo nặng, trung bình, nhẹ, sẽ dẫn đến tái sinh nơi Địa ngục, Ngạ quỷ, hoặc Súc sinh. Ngược lại những hành động tốt lành, đạo đức, tùy theo làm nhiều, vừa hay ít, sẽ dẫn đến tái sinh nơi cõi Vô Sắc, Sắc hoặc cõi trời Dục Giới.

    Do đó ta phải luôn luôn kiểm soát (những hành động qua) ba nghiệp thân, khẩu, ý.


    Theo luật nhân quả thì sự an vui hạnh phúc là kết quả của những hành động thiện hay nghiệp "trắng" (bạch nghiệp), và sự đau khổ là kết quả của những hành động xấu ác hay nghiệp "đen" (hắc nghiệp). Do đó ta cần phải dứt bỏ những hành động xấu ác và phát triển hạnh lành nếu ta muốn đem lại hạnh phúc cho chính ta và mọi người.

    Mười điều ác bao gồm ba điều của thân, bốn của lời nói và ba của tâm ý. Ba điều về thân là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều thuộc lời nói là: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời dụ dỗ và mắng chửi. Ba điều thuộc tâm ý là: tham muốn những gì thuộc sở hữu của kẻ khác, nuôi dưỡng lòng sân hận, và chấp chặt những tà kiến (ý nghĩ sai lầm) như không tin luật nhân quả.

    Không làm mười điều ác kể trên có thể được xem là mười điều thiện. Song le, nếu có tâm nguyện Bồ Tát ta có thể làm mười điều thiện hảo sau đây: cứu sống sinh vật; bố thí; giữ giới và khuyên người khác giữ giới; nói lời chân thật; nói lời hoà giải; đem lại tin yêu; nói lời êm dịu; ít muốn và biết đủ; nuôi dưỡng lòng từ bi; giảng nói chánh kiến.

    Từ bỏ sát sinh, cứu sống mạng người sẽ được trường thọ; ngược lại, tiếp tục giết hại thì mạng căn ngắn ngủi và đầy bệnh tật. Quảng đại bố thí sẽ đưa đến giàu có; trộm cắp dẫn đến nghèo khổ, nạn nhân của bóc lột. Giữ giới thanh tịnh thân thể sẽ được cường tráng, an vui hòa thuận vợ chồng; phá giới, tà dâm, thân thể sẽ bạc nhược, gia đình tan rã. Nói lời chân thật sẽ được tin cậy; nói dối đem lại bất tín. Nói lời hòa giải thì bạn bè luôn luôn thắm thiết; nói lời chia rẽ gây nhiều kẻ thù và sự ganh ghét. Nói lời đứng đắn, không ỷ ngữ sẽ được nghe lại nhiều điều hữu ích; nói xàm hay dụ dỗ sẽ bị nghe lại những điều lẩm cẩm vô ích. Nói lời êm dịu sẽ được kính mến; nói lời hung dữ sẽ bị mắng chửi.

    Nếu biết tự mãn không tham lam, đời sống sẽ cụ túc. Nếu luôn luôn dòm ngó, ham muốn vật sở hữu của người thì muôn đời thiếu thốn. Có lòng từ bi sẽ được đối xử tử tế và kính trọng, ngược lại, độc ác sẽ bị đối xử tệ bạc và nghi ngờ. Giảng nói điều chân chính thì thông minh và trí huệ sẽ tăng trưởng, chấp chặt vào sự hiểu biết sai lầm thì tâm trí sẽ nhỏ hẹp và ngu đần.

    Trên đây kể sơ lược kết quả của những hành động (nghiệp nhân). Có một cách khác đoán biết nghiệp quả tương lai, đó là nhìn vào những động lực thúc đẩy sự tác nghiệp. Nếu hành động tác nghiệp bị chi phối bởi kiêu mạn sẽ dẫn đến tái sinh trong loài Trời; loài A Tu La bởi sự ganh tỵ; loài người bởi sự ham dục; loài Súc sinh bởi sự u mê; loài Quỷ đói bởi sự keo kiệt và loài Địa ngục bởi sự ác độc.


    Sau khi nghiên cứu và học hỏi kỹ lưỡng luật nhân quả và nghiệp báo, ta cố gắng làm nhiều và tăng trưởng điều lành, ngăn chặn và dứt bỏ điều ác. Ðó là bài dự bị tu tập thứ sáu.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #16
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Sự đau khổ của luân hồi

    Nếu muốn giải thoát khỏi luân hồi, ta cần phải quán chiếu về đau khổ và sang tâm nhàm chán nó. Có thực sự nhàm chán mới nôn nóng tìm cầu giải thoát. Còn không thì dù có học rộng biết nhiều (kinh điển) cũng chỉ lần lựa qua ngày, tiếp tục trôi lăn trong sanh tử.

    Bây giờ hãy quán sơ về nỗi khổ của chúng sanh trong lục đạo. Chúng sanh ở địa ngục bị hành hạ, thiêu đốt; ngạ quỷ luôn luôn đói khát; súc sinh bị đánh đập, nuốt xé; loài người phải sinh, già, bệnh, chết; A Tu La luôn luôn chiến tranh; loài trời thì đau đớn và sợ hãi lúc mạng chung.

    Tất cả những gì xảy đến với chúng ta, dù đau khổ hay sung sướng cũng đều là đau khổ, vì nằm trong "khổ khổ", "hành khổ" và "hoại khổ". Dù tái sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartin), Phạm Thiên (Brahma) hay Ðế thích (Indra), v.v..., cũng không thể thoát khỏi ba cái khổ trên. Ý thức và tin chắc rằng sinh tử, luân hồi chẳng khác chi ngục tù, hầm lửa, vực sâu, ta phải nhanh chân tìm cầu ngay từ bây giờ một con đường giải thoát.


    Có ba loại đau khổ: khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Khổ khổ là sự đau khổ thông thường (khổ trong cái khổ) như bịnh hoạn, già yếu, v.v... Có nhiều sự vật bên ngoài dường như sung sướng, nhưng giây phút sau liền đem lại đau khổ: một bữa yến tiệc linh đình có thể đem lại đau bụng hay bội thực, một phút khoái lạc nhục dục có thể đem lại bệnh tật suốt đời. Ðây gọi là hành khổ, sự đau khổ của biến chuyển bất thường.

    Có một sự đau khổ luôn luôn hiện hữu, tiềm tàng trong mọi vật mà người thường gần như không hay biết, nhưng đối với các bậc Thánh (Aryas) đã có cái thấy thanh tịnh về tánh Không thì lại thấy rõ ràng như ban ngày, đó là Hoại khổ. Tất cả sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên giả hợp mà có, đều đang bị tàn hoại trong từng giây phút, từng sát na.

    Sau khi quán chiếu như trên, ta làm khởi lên sự nhàm chán đối với cuộc đời và phát tâm cầu giải thoát khỏi đau khổ. Ðây là tâm nguyện của Tiểu thừa, và nếu phối hợp với sự thấu hiểu về tánh Không (Vacuité) sẽ dẫn đến giải thoát hoàn toàn. Nếu muốn giải thoát và cùng lúc đạt được nhất thiết trí (omniscience) thì ta phải tiến xa hơn. Ngoài sự sanh tâm nhàm chán cuộc đời, ta cần phát khởi tâm Bồ Ðề. Ý thức được tất cả chúng sinh trong luân hồi đều đang chịu đau khổ, mong muốn được giải thoát, nên ta cần phải cố gắng đạt được Phật quả[6] để cứu độ họ. Chính nhờ tâm nguyện này phối hợp với sự chứng ngộ Không tánh sẽ dẫn đến Chánh Ðẳng Chánh Giác.


    Trên đây là bài dự bị tu tập thứ bảy: quán chiếu về đau khổ của luân hồi và phát tâm Bồ Ðề.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #17
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ðược thân người là chuyện hy hữu

    Chúng ta tu hành, tụng kinh, ngồi thiền được là nhờ có thân người quý báu. Tuy vậy đa số lại hờ hững không để ý, thả trôi theo trụy lạc và lười biếng. Nếu ngày mai thần chết đến, ta phải lìa bỏ xác thân ra đi với hai bàn tay trắng, lúc đó ta sẽ ra sao? Phải biết, có được thân người là chuyện hy hữu, vì rất khó được mà lại dễ mất. Do đó ta đừng phí phạm ngày giờ, hãy dành trọn cuộc đời vào sự tu học và thiền quán. Quán chiếu như vậy thuộc bài dự bị tu tập thứ tám.


    Một thân người có đầy đủ lục căn và nhân duyên để học và hành Phật pháp quả thật hiếm có và quý giá. Nó là một dụng cụ dẫn ta đến giác ngộ và giải thoát, nhưng ngược lại, nếu không cẩn thận, nó cũng có thể dẫn ta đầu thai ở những cảnh khổ. Tái sanh được làm người như trên do nhờ đời trước đã tích tụ công đức và trí huệ, nhất là giữ giới cũng như thành tâm cầu nguyện. Tôn giả Bình Thiên (Santidéva) nói rằng: "Thân người rất khó được, chẳng khác chi việc một con rùa mù sống dưới đáy biển, 100 năm mới trồi lên mặt nước một lần để chui cổ vào một cái vòng vàng, mà gió thổi lênh đênh trên mặt biển". Trong thí dụ trên, con rùa tượng trưng chúng sinh, mù là vô minh, ở dưới đáy biển là sống trong ba đường khổ, trồi lên mặt biển là tái sinh, vòng vàng tượng trưng cho thân người, gió thổi vòng trôi lênh đênh chính là gió nghiệp.

    Tính theo số lượng thì sự tái sinh làm người cũng vô cùng khan hiếm. Trong Kinh sách thường nói số chúng sinh ở địa ngục đông như số cát trong sa mạc, số ngạ quỷ như những hạt bụi trong không khí, số thú vật như những ngôi sao trên trời ban đêm và số loài người như những ngôi sao thấy được ban ngàỵ. Mặt khác, ta có thể kiểm tra nhân số của một nước, nhưng không thể nào tính đếm được số thú vật, côn trùng và vi trùng ở trong nước đó.

    Ngoài ra, trong số dân chúng trên địa cầu này, những người có lòng từ bi, quảng đại rất hiếm, và trong số này những người có nhân duyên và khả năng tu tập Phật pháp lại ít hơn một trăm ngàn lần. Do vậy, một khi đã có được thân người, đừng nên phí phạm; cái chết luôn luôn đến quá sớm, quá bất ngờ. Ta đừng nên giống như những người lái buôn ra biển tìm kho tàng, bảo vật mà lại trở về tay không. Hãy từ bỏ những khoái lạc phù du, tinh tấn tu tập Phật pháp để sớm đạt hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh cửu.


    Om Mani Padme Hum !

  8. #18
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    Bổn Sư Du Già
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bốn điều kiện cần thiết

    Luôn luôn ghi nhớ trong tâm về sự vô thường của cuộc đời và sanh tâm nhàm chán. Phải nương theo một vị Thầy giác ngộ. Ðây là điều kiện chính yếu dẫn đến thành công. Dứt bỏ những thành kiến phân biệt về tông phái. Tất cả giáo lý của các trường phái khác nhau chỉ là những phương tiện thiện xảo, tùy theo căn cơ của chúng sinh, dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Do đó không nên khởi tâm nghi ngờ về pháp môn mình đang tu tập.

    Mặc dù thành tâm tinh tấn tu tập nhưng không dính mắc vào hy vọng và lo âu như nghĩ rằng: "Nếu ta thiền quán bây giờ, hoặc trong quá khứ hoặc tương lai, thì ta được phước, nếu không thì thật xấu hổ, v.v...".



    [1] Sách Tây Tạng thường nói "giòng tâm thức" để chỉ định cái tâm. Vì theo các trường phái Duy Thức và Trung Quán thì tâm không phải một vật có tự tánh cố định mà là một giòng ý thức luôn trôi chảy.

    [2] Vajrasattva: Việt dịch là Kim Cang Tát Ðỏa, cho đó là một vị Kim Cang thần hay Bồ Tát, nhưng đối với Tây Tạng thì đó là một hóa thân Phật.

    [3] Divinité de méditation (Yidam): tức là các vị Bồ Tát Hộ Thần, Hộ Mạng, còn được dịch là Ðại Thần Linh Thủ Hộ. Những vị này xuất hiện rất nhiều trong các pháp thiền quán Mật giáo và giữ một vai trò trọng yếu đối với hành giả Mật tông Tây Tạng.

    [4] Kim cương, ngọc báu ở đây không bắt buộc là đồ thiệt. Có thể dùng những đồ trang sức bằng nhựa hay đá đẹp để tượng trưng.

    [5] Véritable nature de l’esprit: dịch là bổn tánh hay chân tánh của tâm. Thực ra tâm và tánh khác nhau, nhưng đa số chúng ta thường cho tâm là tánh.

    [6] Các sách Âu Mỹ khi nói đến sự chứng ngộ hay thành Phật thường dùng chữ Etat de Buddha, vì chứng ngộ là một trạng thái tâm linh hơn là thể xác.

    Om Mani Padme Hum !

  9. #19
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    THIỀN ĐỊNH
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tư thế căn bản của thân và tâm

    Sự tu tập chính yếu bao gồm hai phần: an trụ tâm hay Thiền Ðịnh (Samatha, Shiné) và quán chiếu thâm sâu hay Thiền Quán (Vipasyana, Lhagtong).

    Trước hết về Thiền Ðịnh, có nhiều phương thức tu tập để trụ tâm vào một điểm (Samadhi, Ting Dzin). Nếu biết cách thì những chướng ngại và vọng niệm sẽ không khởi lên nữa, nhờ đó ta có thể trực nghiệm được giòng tâm thức nguyên thủy[1] và đi sâu vào Thiền Quán.

    Hành giả ban đầu tu tập, ngồi xếp bằng theo tư thế kiết già (vajra) hoặc bán già để tiết chế những nguồn nguyên lực[2] đi xuống. Ðể hướng dẫn những luồng nguyên lực thuộc địa đại chảy vào sạn đạo trung ương[3] thì phải giữ xương sống thẳng như cột trụ. Ðể đem những luồng nguyên lực thuộc thủy đại trở về sạn đạo trung ương thì đặt hai bàn tay phía dưới rún theo ấn Ðại Ðịnh, và thả nhẹ hai vai về phía sau. Ðể điều khiển luồng thuộc hỏa đại trở về trung ương thì giữ cổ thẳng và thu cằm vào như lưỡi câu. Ðể hướng dẫn những luồng thuộc phong đại trở về trung ương thì giữ mắt khép hờ một phần ba, chú vào một điểm dọc theo sống mũi. Môi và lưỡi để tự nhiên, hoặc nếu được thì để lưỡi đụng ổ gà. Tư thế trên được gọi là tư thế Vairocana.

    Sự định tâm hay an trụ tâm là một trạng thái an lạc phát khởi nhờ tâm an trụ vào một điểm, sau khi hàng phục được 5 chướng ngại: tán loạn, hôn trầm, nghi ngờ, mỏi mệt, mờ ám.

    Có nhiều cách tu tập: hoặc trú tâm vào một vật, một việc hoặc suy tư về giáo lý như Tứ Diệu Ðế, nhưng vẫn không dính mắc vào "tà niệm". Tà niệm ở đây là những ý nghĩ hoàn toàn không liên quan gì đến đề mục đang quán chiếu. Không nên lầm nghĩ "vô niệm" là ngồi trơ không nghĩ gì hết, vô niệm có nghĩa là vô tà niệm.

    Theo giáo lý Mật tông (Tantra), tâm và những luồng nguyên lực liên quan rất mật thiết. Nếu những luồng nguyên lực (prana, lung) trôi chảy đúng đường thì tâm sẽ vắng lặng; nhưng nếu chúng chảy sai trệch thì vọng tưởng, vọng niệm khởi lên loạn xạ. Những luồng này trôi chảy trong các ống dẫn lực hay kinh lực (nadi, tsa); trong số đó có ba đường chính là đường kinh giữa (sạn đạo trung ương), một ở bên phải và một ở bên trái, cả ba chạy song song phía trước đường xương sống.

    Thông thường, những luồng nguyên lực chỉ di chuyển trong hai đường kinh phải và trái, do đó làm khơi dậy vọng niệm, ảo tưởng. Một khi những luồng nguyên lực được điều khiển và hướng dẫn trở về sạn đạo trung ương thì mọi vọng niệm tự dứt. Ngồi trong tư thế Vairocana không ngoài thực hiện mục đích trên.

    Có nhiều cách phân loại sắp xếp các luồng nguyên lực. Theo sáu phép Du Già của Naropa[4] thì có năm luồng nguyên lực: 1) luồng đi xuống, nhằm tống khứ ra ngoài những uế trược qua hai đường đại tiểu tiện; 2) luồng đi lên, điều khiển sự hấp thụ thức ăn, sự rung động của cổ họng và giọng nói; 3) luồng tiếp giữ sức sống (sinh lực); 4) luồng điều hòa sự tiêu hóa; 5) luồng chạy khắp châu thân, tàng ẩn trong mọi động tác.

    Có một cách phân loại khác được sắp xếp theo địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại và không đại.

    Trong tập sách này, cả hai cách phân loại được phối hợp để chỉ dạy về tư thế Vairocana và điều khiển những luồng nguyên lực.


    Sau khi an trụ ở tư thế này, tâm bớt dính mắc vào giòng tư tưởng vọng niệm, dần dần trạng thái vô khái niệm sẽ ảnh hiện. Ðể tránh sự căng thẳng hay vận công quá mức, trước hết hãy thở ra vài hơi mạnh rồi sau đó chỉ cần hít thở nhẹ nhàng tự nhiên.

    Khi thở ra hãy quán tưởng như đang tống khứ tất cả phiền não và hắc nghiệp ra ngoài. Sau đó, tập hít thở trong chánh niệm, và khi tâm trở lại vắng lặng thì không cần chú tâm theo dõi hơi thở nữa.

    Quán niệm hay nhớ lại sơ về các pháp dự bị tu tập, sau đó cắt đứt tất cả ý niệm, không nghĩ gì về quá khứ, tương lai, không bám víu hoặc xua đuổi, chỉ để tâm trong trạng thái trôi chảy tự nhiên, bây giờ và ở đây.

    Trên đây là điểm thứ nhất: những tư thế căn bản của thân và tâm, nền tảng quan trọng của Thiền Ðịnh, hành giả cần phải tinh tấn thực tập.

    Om Mani Padme Hum !

  10. #20
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Đại Thủ Ấn
    THIỀN ĐỊNH
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ðịnh tâm trên một hình sắc.

    Nếu không thể đem tâm trở về trạng thái tự nhiên và an trú trong đó thì phải nương vào một vật bên ngoài để chú tâm như một khúc gỗ, hòn sỏi, tượng Phật, ngọn lửa, v.v... những vật nào tự cảm thấy thích hợp. Không cần suy nghĩ về màu sắc hay hình dáng của vật đó, chỉ cần chú ý giữ tâm an trú vào vật trước mặt, không quá căng thẳng hay thả lỏng. Chặt đứt tất cả tư tưởng ngoại biệt.


    Nếu tâm quá căng thẳng sẽ cảm thấy lo âu và tức tối; nếu thả lỏng thì lại bị hôn trầm và mờ ám. Ðiều tâm cũng giống như lên giây đàn, không căng mà cũng không lỏng thì đàn mới kêu.

    Cách thức chú tâm trên một hình sắc cũng tương tợ như việc quan sát một hòn sỏi nằm dưới đáy ly nước đục. Hòn sỏi sẽ hiện rõ ràng sau khi tất cả bùn nhơ lắng xuống đáy. Cũng vậy, khi những ý nghĩ không còn khởi lên khuấy động, ta sẽ nhìn thấy rõ đối tượng hình sắc. Hãy tập nhìn hình sắc như một đứa trẻ nhỏ, không bình luận hay suy nghĩ[5].

    Nếu chú tâm mà không khởi ý nghĩ hay khái niệm thì tốt. Nhưng nếu chúng khởi lên, chỉ cần nhận biết và không theo, vì chúng tự khởi tự diệt.

    Khi một ý niệm khởi lên, nếu không sáng suốt nhận biết thì nó sẽ móc nối làm khởi lên muôn vàn ý niệm khác gây chướng ngại cho sự tu tập. Những ý niệm chỉ là trò chơi của tâm, tựa như những gợn sóng trên nước, chợt khởi rồi tự tan biến.


    Ta có thể chú tâm vào những chủng tự OM màu trắng, AH đỏ và HUM xanh, viết để trước mặt hoặc quán tưởng trong tâm. Ba chữ trên tượng trưng cho thân, ngữ, ý của chư Phật.

    Trong lúc tu tập, những ý niệm như "Ta đang thiền, ta không thiền, ta phải làm cho tâm yên lặng, ...", đều phải dứt bỏ. Cần phải kiểm soát và điều khiển tâm an trú vào đề mục. Hãy thực tập những khóa ngắn hạn nhưng thường xuyên. Nhờ sự tập luyện này tâm sẽ trở về trạng thái sáng suốt, tĩnh lặng. Ðây là điểm thứ hai của Thiền Ðịnh.


    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •