PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
Phần 9
__________________________________________________ ______________________________________


XXV. Phương tiện khai thị thuyết pháp vào ngày 19-10-1958

Cổ nhân bảo:

- Chớ đến những nơi chợ búa lợi danh. Ngủ trong núi cũng là vi diệu.

Người trên thế gian luôn bị danh lợi ràng buộc, triền phược tầng tầng lớp lớp. Bỏ được một tầng thì vẫn còn tầng khác. Tập khí xấu xa, giam cầm thân tâm, không thể nào xoay chuyển được. Người có giác chiếu thì không chạy theo lợi danh. Kẻ không giác chiếu, luôn chạy đuổi theo chúng. Vì vậy, con người có biết bao khó khăn hoạn nạn. Chư cổ đức thường nhắc nhở những vị tu hành:

- Tỳ kheo thường trụ nơi núi rừng thì Phật hoan hỷ. Ngược lại, tỳ kheo thường trú tại nơi ồn ào náo nhiệt thì Phật rất ưu sầu.

Thật vậy, chư tỳ kheo phải thường trú nơi A Lan Nhã. Sớ kinh Đại Nhật viết: "A Lan Nhã được gọi là nơi 'Ý Lạc', tức là nơi an lạc của hành giả không tịch. Bên ngoài chùa cất những am tranh theo hạn lượng, để ở một mình hay cùng vài ba người mà trú. Những am tranh đó, có thể do các thí chủ xây cất. Hành giả lại có thể ngồi bên dưới các gốc cây cổ thụ, tại những khoảnh đất trống".

Chư tỳ kheo thường trú nơi A Lan Nhã, chớ nên trú ở bên ngoài tự viện. Đó là hạnh bậc nhất trong mười hai hạnh Đầu Đà. Thành ấp chợ búa vốn là nơi trao đổi lừa ngựa, và là chốn của hai chữ danh lợi, khiến con người thường bị trần lao triền phược trói buộc; suốt ngày chỉ bận rộn trong thị phi khổ não.

Vì vậy, chư Tổ Sư xưa nay, phần lớn là cư trú nơi núi rừng. Thích Ca Thế Tôn xuất gia tu đạo, nơi Tuyết Sơn tu khổ hạnh trong sáu năm trường. Tại nhà hay tại thành thị chẳng phải là nơi tu hành sao, hà tất phải đến núi tuyết tu hành? Tháng chạp tuyết rơi, băng giá lạnh lẽo, vốn là lúc vạn vật thu mình. Núi sông đất đai đều biến thành thế giới kim ngân lưu ly, khiến muôn vạn màu sắc đều tan mất. Đó vốn là cảnh giới của các bậc đạo nhân. Thật vậy, nơi Tuyết Sơn băng giá lạnh lẽo, khiến muôn niệm đều tan, nên không bị cảnh chuyển. Không trụ tại thế gian, nên gọi là xuất gia. Không khởi vọng tưởng, tức gọi là xuống tóc tu đạo. Thuở xưa, chư Phật đều đến núi tuyết để ẩn cư tu hành. Phàm phu chúng ta sao lại dám sống qua ngày tại thành ấp chợ búa nhộn nhịp. Chư cổ đức một khi đã trụ tại thâm sơn, thì không còn nhiễm duyên trần. Dẫu có ông hoàng đế nào đến thỉnh mời, các ngài cũng chẳng màng xuống núi.

Xưa kia, thiền sư Vô Nghiệp tại Phần Châu thường bảo rằng chỗ đắc chí bậc nhất của chư cổ đức là nơi am tranh thạch đá. Ngài thường dùng nồi đá nấu cơm rau đạm bạc. Trải qua ba mươi năm, Ngài chẳng đoái hoài đến danh lợi; niệm niệm chẳng còn nghĩ về tiền tài vật báu; quên hẳn người đời, thường ẩn tích nơi rừng sâu núi thẩm. Quân vương dầu có xuống chiếu thỉnh mời vào kinh đô, mà Ngài vẫn dửng dưng, không màng đi. Chư hầu thỉnh mời mà chẳng màng đến. Nào như chúng ta, mãi tham danh ái lợi, mờ mịt trên đường đời, như những thương buôn! Ngài nói được và làm được những điều này. Vua Đường Huệ Tông xuống chiếu triệu Ngài vào kinh đô, mà Ngài chối từ, lấy cớ là già bịnh. Khi Đường Mục Tông lên ngôi, vì ngưỡng mộ đạo cao đức trọng của Ngài, nên sai hai vị tăng lục là Linh Phụ và Đẳng Tê đến núi cung ngưỡng thỉnh mời vào kinh. Hai vị tăng lục đến, thưa:

- Hoàng Thượng lần này ân cần cung thỉnh hòa thượng vào kinh, chẳng khác bình thời. Xin Ngài hãy thuận theo thiên ý, chớ từ chối vì lý do bịnh hoạn.

Nghe thế, Ngài chúm chím cười, bảo:

- Bần đạo có đức độ gì mà phải lụy phiền đến thánh chúa. Xin mời quý vị hãy đi trước. Bần đạo sẽ theo sau.