PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 9__________________________________________________ ______________________________________
Ngài là một vị thiền sư, đệ tử đời thứ ba của thiền sư Pháp Nhãn. Trước tác của Ngài có rất nhiều. Bài "Tâm Phú" và bài "Tâm Phú Lạc" giảng giải về việc minh tâm kiến tánh. Bài "Vạn Sự Đồng Quy" giảng giải về sự viên dung vô ngại của các pháp. Một trăm quyển "Tông Cảnh Lục", hoằng dương xiển lý "Dâng cành hoa ngộ tông chỉ" của Thiền tông, cùng dung hợp giáo lý các tông pháp, quy về nguồn Tâm.
Ở Nhật Bản, có mười ba tông phái. Ở Tàu, có mười tông phái. Bộ Tông Cảnh Lục lấy tâm làm tông, và lấy việc ngộ đạo làm pháp tắc. Lời lẽ tuy có sâu cạn, nhưng muôn pháp đều cùng phát xuất từ một cội nguồn. Những điểm vi tế đều phát xuất từ tâm. Dẹp tà trợ chánh, khiến người sau không đi lầm lạc.
Suốt đời, Ngài giảng thuyết rất nhiều, nhưng chưa từng bảo tu Thiền là dở. Ngài ngộ đạo từ Thiền tông, sao lại đi hoằng dương Tịnh Độ? Đối với người đại ngộ, pháp pháp đều dung thông; tham Thiền là tu đạo; niệm Phật cũng là tu đạo. Chúng ta lao động cuốc đất ở đây, cũng là tu đạo. Vì muốn cứu độ những người độn căn hạ liệt trong đời mạt pháp, nên cả đời Ngài hoằng dương pháp môn niệm Phật, và được người người tôn vinh là vị tổ thứ sáu của tông Tịnh Độ. Nơi chùa Tịnh Từ, tăng chúng kiến lập tháp kỷ niệm tôn thờ Ngài. Trong quyển Phật Tổ Thống Ký, viết: "Có vị tăng từ Lâm Xuyên đến, kể rằng lúc bị bịnh nặng, hồn nhập xuống cõi U minh, thấy vua Diêm La đảnh lễ trước tôn tượng của một vị Thánh tăng. Hỏi ra thì biết là vua Diêm La đang đảnh lễ tôn tượng thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ở Hàng Châu. Ngài đã được vãng sanh vào hàng Thượng phẩm Thượng sanh ở cõi Tây Phương".
Phật tử Tàu lấy ngày mười bảy tháng chạp làm ngày vía Phật A Di Đà. Vậy họ y cứ theo Kinh điển nào? Kinh A Di Đà thuyết: "Qua mười muôn ức cõi Phật về phía Tây, có Phật hiệu là A Di Đà".
Vậy ai biết được mười bảy tháng chạp là ngày vía của Phật A Di Đà? Ngày này, vốn là ngày sanh nhật của thiền sư Vĩnh Minh, vì Ngài chính là Phật A Di Đà thừa nguyện hóa thân trở lại cõi Ta Bà.
Tứ Liệu Giản vừa viết ra, hai tông Thiền Tịnh liền khởi tranh luận. Người tu Tịnh Độ bảo:
- Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người tu, chín người lạc.
Nếu chỉ tu theo Thiền tông thì không thể giải thoát khỏi sanh tử. Nếu chỉ tu theo tông Tịnh Độ thì "muôn người tu, muôn người được vãng sanh". Vừa Tham Thiền vừa niệm Phật thì như "hổ mọc sừng". "Không Thiền không Tịnh Độ", là kẻ ác trong thế gian.
Người tu Tịnh Độ phê bình Thiền tông như thế. Ngày nay, họ vẫn còn náo nhộn không ngừng, tức thường bảo rằng Tham Thiền là việc xấu. Họ lại dẫn chứng:
- Giới thiền sư, hậu thân làm Tô Đông Pha. Thanh Tảo Đường, hậu thân làm Tăng Lỗ Công. Tôn Trưởng Lão, hậu thân làm Lý Thị Lang. Nam Am Chủ, hậu thân làm Trần Trung Túc. Trí Tạng Mỗ, hậu thân làm Trương Văn Định. Nghiêm Thủ Tọa, hậu thân làm Vương Quy Linh. Thiền sư Tắc Thừa, hậu thân làm Hàn Thị Tử. Kính Tự Tăng, hậu thân làm Kỳ Phu Tử. Thiện Mân, hậu thân làm Đổng Ty Hộ Nữ. Hải Ấn, hậu thân làm Chu Phòng. Nhạn Đàng Tăng, hậu thân làm Tần Thị Tử Cối, do dựa quyền thế mà tạo các nghiệp ác. Những vị này, nếu xưa kia phát tâm cần cầu vãng sanh cõi Tịnh Độ, thì chắc sẽ không bị triển chuyển như vầy... Làm dân thường, làm người nữ, làm kẻ ác, hoặc chuyển thân làm quan thần, văn võ danh tiếng, nhiều không thể tính được. Ai ơi! Hãy nên vãng sanh qua cõi Tây Phương!
Theo tôi nhận thấy, hậu thân của người tu hành, bị "triển chuyển hạ liệt" do người chớ chẳng phải do pháp. Thời vua Đường Hy Tông, có cô kỷ nữ tại Đĩnh Châu, nơi miệng thường thoát ra mùi hương hoa sen. Một vị tăng nước Thục bảo:
- Cô này đời trước làm ni, thường tụng Pháp Hoa hơn hai mươi năm.

Trả lời với trích dẫn