DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 196
  1. #1
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người thế tục si mê, tạo bao nghiệp ác mà không thường hành việc lành, nên phải chiêu vời quả khổ. Người xuất gia có muốn thoát khỏi vòng khổ lụy không? Nếu không muốn, thì cần gì nhập vào cửa Không? Nhập vào cửa Không tức là chẳng có một vật gì để chứng đắc, đều ngưng, sao còn có thiên đường địa ngục? Song, nếu chưa nhận rõ bốn đại là không, năm ấm chẳng có, thì vẫn chưa tính là nhập vào cửa Không. Muốn nhập vào cửa Không, phải nghiên cứu đọc tụng tường tận về kinh Lăng Nghiêm. Lời lẽ trước sau trong toàn bộ kinh, không bàn ngoài năm ấm. Trong đó, từ năm ấm lại thuyết đến sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới.

    Bên trong thì là thân tâm, còn bên ngoài thì thuộc về khí chất của thế giới; chúng không ngoài năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Kinh thuyết phàm thuyết thánh, thuyết ngộ đạo, thuyết nhập đường ma, đều muốn xiển minh năm ấm không thật có. Kinh dạy chúng ta hãy xem thấu rõ năm ấm đều là không. Cuối cùng, Kinh nói đến Niết Bàn, cùng ba cõi bất biến. Kinh cũng nói rõ tường tận về tà ma năm ấm. Sắc dâm trong sắc ấm là căn bản sanh tử. Giết hại, tà dâm, nói láo vốn là cội gốc của địa ngục. Nhìn thấu năm ấm vốn không, thì thoát ly sanh tử, không còn bị luân hồi. Phải chiếu soi như thế nào? Chiếu soi tức giác chiếu. Thời thời khắc khắc, y theo lời Kinh, dùng trí huệ quán chiếu năm ấm. Chiếu soi rõ ràng thì thấy năm ấm đều không. Lúc đầu quán chiếu, đều là vọng tưởng, nhưng không quan hệ chi. Người xưa bảo:

    - Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm.

    Nếu vọng niệm khởi, phải nên giác chiếu, chớ để vọng niệm chuyển. Nếu không thể giác chiếu, thì lúc ngồi thiền lại sợ đau chân; lúc lễ Phật, sợ nhức lưng. Lười biếng nhút nhát, không thông lộ trình lên thiên đàng, nên tự nhiên chạy xuống Địa ngục.

    Đại sĩ Hàn Sơn viết kệ:

    "Nhân gian hỏi đạo Hàn Sơn

    Đường Hàn Sơn lộ không thông

    Ngày hè băng tuyết chưa tan

    Mặt trời hiện, sương lóng lánh

    Tựa như tôi, sao chờ thời

    So cùng bạn, tâm chẳng đồng

    Tâm bạn nếu tựa như tôi

    Lại được vào nơi đó".



    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #2
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hàn tức là hàn băng giá lạnh. Trong mùa hè, băng tuyết vẫn chưa tan. Mặt trời hiện, sương lóng lánh; một phiến băng trong tâm của tôi không đồng với bạn. Nếu bạn muốn làm tựa giống như tôi, thì có thể vào tận núi Hàn Sơn, chứ chẳng phải đường Hàn Sơn chưa thông.

    Người tu đạo phải thấy năm uẩn đều không. Trước hết, phải khô tâm lạnh ý. Nếu lửa cháy rực trời mà chưa tan băng tuyết giá lạnh tâm tràng, thì mới cùng đạo tương ưng.

    Xưa kia, Lư Khâu Dận xuất quân tại Mục Đan Khâu. Ngày lâm trận, chợt bị nhức đầu dữ dội, mà các thầy thuốc không có cách nào chữa trị. May mắn thay, ông gặp một Thiền sư, hiệu là Phong Can, tự bảo rằng từ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đặc biệt tìm đến đó. Lư Khâu Dận bèn nhờ Thiền Sư chữa bịnh. Thiền Sư thong thả bảo:

    - Thân trú nơi bốn đại. Bịnh từ huyễn sanh. Nếu muốn trừ khử, hãy uống nước tịnh.

    Khi đem nước tịnh lên, Thiền sư ngậm rồi phun nước, sắn tay áo lên, bảo:

    - Chim biển Thai Châu rất độc. Từ nay, phải nên bảo trọng.

    Sau đó, Lư Khâu Dận hỏi:

    - Nơi đây có bậc thánh hiền nào đáng để cung kính thờ làm thầy chăng?

    Thiền Sư đáp:

    - Thấy mà không nhận ra. Nhận ra mà không thấy. Nếu muốn thấy, chớ nên chấp tướng. Hàn Sơn vốn là ngài Văn Thù, ẩn tích nơi chùa Quốc Thanh. Thập Đắc tức là ngài Phổ Hiền, dạng trạng như kẻ bần cùng điên cuồng, hoặc đến hoặc đi, đang làm lụng trong bếp tại chùa Quốc Thanh.

    Nói xong, Thiền Sư liền cáo từ. Sau này Lư Khâu Dận làm quan, đến nhậm chức tại Thai Châu. Vì nhớ đến lời của thiền sư Phong Can năm xưa, nên vừa nhậm chức ba ngày, ông tìm đến các tự viện, cung kính vấn hỏi chư Thiền đức. Quả nhiên hợp với những lời nói xưa kia của Thiền sư Phong Can. Ông đến chùa Quốc Thanh, hỏi tăng chúng rằng Thiền sư Phong Can cùng Hàn Sơn Thập Đắc, hiện đang trú nơi đâu. Khi ấy, có vài vị Tăng cười ngất, bảo:

    - Thiền sư Phong Can đang trú đằng sau tàng Kinh tạng. Nơi đó, không ai đến được vì có hổ dữ thường quanh quẩn. Hai ông Hàn Sơn và Thập Đắc, hiện đang nấu nướng trong bếp.

    Nói xong, Tăng chúng dẫn Lư Khâu Dận đến viện của thiền sư Phong Can. Mở cửa phòng ra, chỉ thấy dấu chân hổ. Khi họ vào nhà bếp, thấy hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc, chỉ tay về hướng họ mà cười to. Lư Khâu Dận liền lễ bái. Hàn Sơn và Thập Đắc cầm tay nhau, cười ha hả, và la to:

    - Phong Can lắm lời. Di Đà không nhận ra, sao lễ lạy chúng tôi?

    Tăng chúng tụ hợp, kinh ngạc vì thấy một vị thượng quan lại đi lễ lạy hai ông tăng điên khùng. Lúc đó, Hàn Sơn và Thập Đắc nắm tay nhau, bước ra khỏi chùa, rồi chạy vào núi tuyết. Lư Khâu Dận lại hỏi tăng chúng:

    - Hai vị này thường trú ở chùa này phải không?

    Hỏi xong, ông cho người đi tìm, thỉnh hai Ngài trở về chùa. Trở về dinh, ông mang hai bộ tịnh y ca sa, bày biện hương dược đặc biệt, cùng bao loại thức ăn, rồi mang vào núi cúng dường. Lúc đó, hai vị đại sĩ vẫn không chịu trở về chùa. Vừa thấy ông quan đến, hai ngài bèn hô to:

    - Giặc! Giặc!

    Hô xong, hai ngài lại nắm tay nhau, vừa chạy vào núi sâu, vừa bảo:

    - Này quý vị! Mỗi người phải tự nỗ lực tu hành.

    Nói xong, hai ngài chạy mất vào núi, không để dấu vết, khiến chẳng ai tìm được. Tăng chúng trong chùa, khi xem xét lại hành trạng hằng ngày của hai vị thì thấy thơ kệ, được viết đầy dẫy trên những vách đá nơi vườn trúc sau chùa, và trên các tường vách tại những nơi thờ Thần hoàng Thổ địa, cùng hơn ba trăm bài kệ trên những bức tường nhà cửa dân làng. Tăng chúng góp nhặt lại những bài thi kệ đó, rồi đóng thành một quyển, để lại cho đến nay. Theo lời của ngài Hàn Sơn thì: "Năm lời năm trăm thiên; bảy chữ, bảy mươi chín; ba chữ ba mươi mốt. Tất cả cộng thành sáu trăm bài kệ. Những lời viết trên đá thạch, tự khoe chữ viết rất hay. Nếu lãnh hội thơ của Ta, chân chánh là mẹ của Như Lai... Nhà có thơ Hàn Sơn, hơn cả Kinh kệ. Thư để trên tấm bình phong, thời thời nên xem một biến".

    Ngài Thập Đắc viết:

    "Có kệ có muôn ngàn

    Gấp gáp ứng đáp khó

    Nếu muốn hiểu thấu rõ

    Nên vào núi Thiên Thai

    Trong hang sâu ngồi tọa

    Thuyết lý và đàm huyền

    Cùng Ta không thể gặp

    Tựa đối diện ngàn núi".


    Thơ kệ của hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc được lưu truyền cho đến ngày nay, mà người người đều tôn trọng. Nhà nho cũng có nhiều người thích đọc tụng. Hai ngài xuất khẩu thành thơ, lời lời đều đàm huyền thuyết diệu. Song, hai ngài bảo rằng không nên chuyển văn làm thơ vận để đọc tụng. Nếu làm thì tuy đối diện với hai ngài, nhưng vẫn như cách xa ngàn núi.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #3
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    37/ Ngày hai mươi lăm tháng sáu

    Bồ Tát Địa Tạng phát đại thệ nguyện:

    "Chúng sanh độ hết tận, thì mới chứng đạo Bồ Đề.

    Địa ngục chưa trống không, thệ không thành Phật".


    Tất cả chư Bồ Tát cũng đều phát nguyện như thế. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, chúng ta lên chánh điện, cũng phát nguyện:

    "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

    Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành".

    Là đệ tử Phật, mọi người phải nên phát nguyện. Chứng quả thâm sâu hay cạn cợt, đều do nguyện lực rộng hay hẹp. Y theo nguyện hành trì, mới định đoạt quả vị lớn nhỏ.

    Phật từ chúng sanh mà tu thành. Chúng sanh nếu y theo nguyện mà hành trì, thì đạt được quả Bồ Đề, tức có khả năng thành Phật.

    Ai ai cũng có duyên phần thành Phật. Sao chư Bồ Tát lại còn phát nguyện độ chúng sanh, độ tới độ lui, độ mãi chẳng hết? Chữ chúng sanh, do ba chữ nhân hợp thành, tức ba người trở lên thì thành chúng. Con số của chúng sanh, nhiều vô cùng vô tận. Trong mười pháp giới, trừ pháp giới chư Phật, chín pháp giới kia đều là chúng sanh. Ba pháp giới như pháp giới Bích Chi Phật, pháp giới Bồ Tát, pháp giới A La Hán, vốn là Thánh hiền, vì đã xuất ra khỏi biển khổ sanh tử, không còn luân hồi. Sáu pháp giới còn lại như Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, chưa thoát ra khỏi sanh tử. Trong chín pháp giới, ba pháp giới thánh hiền vẫn còn tập khí vi tế cạn cợt, chưa dứt trừ tận, nên vẫn còn thuộc về hàng chúng sanh. Sáu pháp giới bên dưới thì tập khí thâm sâu nặng nề, nghiệp chướng đầy dẫy, nên gọi là chúng sanh khổ não. Những chúng sanh này, chết rồi lại sanh, không khi nào ngừng. Số luợng chúng sanh này, nhiều không thể tính hết.

    Thiền sư Nguyên Khuê ở núi Sùng Nhạc, bảo Thần núi:

    - Phật làm được bảy việc, nhưng không thể làm được ba việc. Tại mọi tướng không, Phật chuyển được thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật biết được tánh của quần sanh, cùng các sự việc trong muôn ức kiếp, mà không thể hóa độ kẻ vô duyên. Phật độ được hết vô lượng chúng hữu tình, mà không thể độ tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba điều mà Phật không thể làm được. Song, định nghiệp thật cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ được độ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm, lại không có ai làm chủ tể. Có pháp mà vô chủ, tức gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, tức gọi là vô tâm. Hôm nay, Ta không dùng thần thông để hiểu Phật, nhưng lại dùng vô tâm mà liễu đạt hết muôn pháp. Chúng sanh vốn không tăng không giảm, nên lúc cứu độ họ, không thể gọi là tận hay bất tận.

    Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giải thích bốn hoằng thệ nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ..." Tâm tà, cuồn loạn, bất thiện, ganh ghét, ác độc, v.v... là tâm chúng sanh. Tự tánh các ông tự độ, đó gọi là độ chân thật.

    "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn", tức dùng trí huệ của tự tánh bát nhã, để trừ khử tư tưởng hư vọng.

    "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", tức thấy tự tánh, thường hành chánh pháp, đó gọi là học Phật chân chánh.

    "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành", tức thường luôn hạ tâm, hành nơi chân chánh; rời mê rời giác, thường sanh Bát Nhã, trừ chân trừ vọng, tức thấy Phật tánh, tức gọi là thành Phật đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #4
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thiền sư Phật Quả nói:

    - Bàn về cứu cánh, Phật cũng không lập, sao còn có chúng sanh? Bồ Đề cũng không lập, sao gọi tạo phiền não?

    Người xưa thuyết những lời như thế, sao chúng ta không thể làm được? Chỉ vì không dám trừ phiền não, xả bỏ chấp trước không nổi, làm chủ không được, chẳng có giác chiếu, nên nơi tự tánh chợt khởi vọng niệm. Nếu quên mất động tĩnh, thì trong nước xanh, trăng sáng được hiện tiền.

    Tại Gia Châu, vào niên hiệu Chánh Hòa thứ hai, một hôm sấm sét đánh, chặt đôi tàng cây cổ thụ. Trong đó, có một vị Tăng đang nhập định, râu tóc bao quấn chung quanh thân. Vị tăng này được triệu về hoàng cung, để phiên dịch Kinh điển. Quan Kim Tổng Trì phải dùng cây khánh bằng vàng để đánh thức Ngài. Được hỏi tên tuổi, Ngài bảo:

    - Tên tôi là Huệ Trì, vốn là sư đệ của pháp sư Huệ Viễn tại núi Lô Sơn. Trên đường tới núi Nga Mi, ngừng nhập định tại đây.

    Được hỏi "muốn trở lại nơi nào ?", Ngài đáp:

    - Tôi muốn trở lại nhập định trong tàng cây xưa.

    Vua ban chiếu, đem lễ vật biếu tặng. Nhân đó, Ngài làm kệ:

    "Bảy trăm năm đến cổ thụ già

    Trong định ngưng thở ai biết được

    Tranh như mang dép trở về Tây

    Sanh tử sao nhọc, cây làm da".


    Triều Lương Võ Đế, niên hiệu Phổ Thông thứ bảy (526), Đạt Ma Tổ Sư đi thuyền từ Tây Thiên đến nước Tàu. Vì cơ duyên vấn đáp của vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ bèn vượt sông đến Lạc Dương, cư trú tại chùa Thiếu Lâm. Sau chín năm ngồi thiền đối diện vách đá, Tổ đem Chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho ngài Huệ Khả. Lúc hóa duyên xong, Tổ an nhiên thị tịch. Đại chúng xây mộ phần của Tổ tại núi Nhĩ Sơn, và lập tháp thờ nơi chùa Thiếu Lâm. Trong năm đó, quan ngự sử Tống Vân của nhà Ngụy trên đường đi sứ từ Thiên Trúc trở về, ngang qua một sườn núi, thấy Tổ đang quảy một chiếc giày trên vai, bước đi lẹ làng. Tống Vân hỏi Tổ đi đâu? Tổ đáp:

    - Ta trở về Thiên Trúc.

    Tống Vân trở về, thuật lại việc này, rồi cùng môn nhân đào huyệt, nhưng thấy quan tài trống không, chỉ còn một chiếc dép. Vua ban chiếu chỉ, đem chiếc dép đó về chùa Thiếu Lâm thờ phụng cúng dường. Người sau vẽ tượng thờ Tổ, vai quảy một chiếc dép. Tổ Đạt Ma ngồi thiền đối mặt vách tường. Huệ Trì nhập định. Công phu thâm sâu cạn cợt không đồng. Công phu thiền định bảy trăm năm, không thể bảo là chẳng thâm sâu, nhưng sao sánh bằng một chiếc dép trở về Tây Thiên của Tổ Đạt Ma! So với thiền định của thiền sư Huệ Trì, chúng ta còn thua xa diệu vợi. Chẳng có chút công phu thiền định, làm sao độ được chúng sanh? Hãy nỗ lực xả chấp trước, cố gắng dụng công tu đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #5
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    38/ Ngày hai mươi bảy tháng sáu

    Tại Ấn Độ, lúc Phật chưa ra đời, các tà sư ngoại đạo phân nhóm với nhau, thường được gọi là lục sư ngoại đạo. Mỗi ngoại đạo có mười lăm đệ tử. Thầy trò tính chung, tổng cộng thành chín mươi sáu, tức xưng là chín mươi sáu ngoại đạo. Trong đó, có một tông phái rất tương đồng với Phật giáo, nên trừ ra chỉ còn chín mươi lăm tông. Trong chín mươi lăm tông phái, tông chỉ cách thức tu hành của mỗi tông phái không đồng. Tuy nói tu hành, nhưng lý lẽ đều không rõ ràng, chỉ nghị luận điên điên đảo đảo. Song, vẫn có nhiều người theo học. Xưa kia, ở nước Tàu có hoàng đế Hiên Viên, nhân đi dạo chơi nơi núi Không Động tại Quảng Thành, bảo rằng đến đó để tu hành. Vua Phục Hy vẽ hình bát quái, cũng bảo là tu đạo. Lý Lão Quân vì nhà Chu mà đóng cột trụ làm sự tích, cũng bảo là giảng đạo. Xưa nay, trong và ngoài nước có rất nhiều vị tự xưng là giảng đạo tu hành, nhưng trình độ sâu cạn không đồng, và cùng đạo Phật cách xa diệu vợi.

    Luận bàn về nhân duyên khai sáng Phật giáo: Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni, dòng họ Sát Lợi. Cha tên Tịnh Phạn. Mẹ tên Ma Da. Dòng họ Sát Lợi, từ lúc khai thiên lập địa, đời đời đều làm vua chúa tại cõi Diêm Phù Đề. Bồ Tát trải qua bao kiếp tu hành, được Phật Nhiên Đăng thọ ký thành Phật. Sau đó, trong đời Phật Ca Diếp, Bồ Tát thành đạo, sanh lên nội viện cung trời Đâu Suất, hiệu đại sĩ Hộ Minh. Kế đến, ứng vận giáng thần vào thai hoàng hậu Ma Da. Mồng tám tháng tư năm giáp dần, Thái tử đản sanh tại bắc Ấn Độ. Đương thời, tại nước Tàu chính là đời vua Chu Chiêu Vương, niên hiệu thứ hai mươi bốn. Lúc hạ sanh từ lưng sườn bên phải của hoàng hậu Ma Da, Bồ Tát phóng luồng hào quang sáng chói, chiếu khắp mười phương. Từ dưới đất vọt lên hoa sen vàng đỡ chân Bồ Tát. Khi đó, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương, Bồ Tát nói:

    - Trên trời dưới đất, không ai sánh bằng Ta!

    Ngày mồng tám tháng hai năm mười chín tuổi, Bồ Tát đi qua bốn cửa thành, thấy các việc sanh, già, bịnh, chết, nên khởi tâm bi thương ai thán, muốn xuất gia thoát ly sanh tử, tự nghĩ: "Sanh lão bệnh tử này thật rất chán chường".

    Đến tối, trời Tịnh Cư, hiện xuống bảo:

    - Thời điểm xuất gia đã đến. Ngài hãy nên đi!

    Lúc đó, Bồ Tát cỡi ngựa vượt thành Ca Tỳ La. Được chư Thiên đỡ chân, ngựa bay lên hư không. Bồ Tát lại bảo:

    - Nếu chưa đoạn tám khổ, chưa chứng đạo Bồ Đề, chưa Chuyển pháp luân, thề không bao giờ trở lại thành này.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #6
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Liền đó, Bồ Tát đến núi Đan Đặc tu đạo. Đầu tiên, học bất dụng thiền định nơi ông A Lam Ca Lam ba năm, nhưng Bồ Tát nhận biết thiền định này chưa có thể xả chấp được. Sau đó, Bồ Tát đến học thiền định Phi phi tưởng xứ, nơi ông Uất Đầu Lam Phất ba năm, nhưng cũng nhận biết rằng thiền định này chưa phải là tối thắng. Bồ Tát lại đến núi Tượng Đầu, cùng với các chúng ngoại đạo tu hành; trải qua sáu năm, tu hành khổ hạnh; ngày ngày chỉ ăn một hạt mè. Kế đến, Bồ Tát đến cội Bồ Đề ngồi thiền. Đến đêm thứ bốn mươi chín, thấy sao mai buổi sáng, Bồ Tát liền đại ngộ, thành bậc Đẳng chánh giác, hiệu là đấng Như Lai Thế Tôn. Mồng tám tháng hai, đức Thế Tôn đến thành Ba La Nại, nơi vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Bốn Thánh Đế, độ năm anh em ông Kiều Trần Như:

    - Các ông nên biết, đây là khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, con đường diệt khổ.

    Lúc Phật chuyển pháp luân Bốn Thánh Đế trong ba lần mười hai thời, năm anh em ông Kiều Trần Như liền đắc pháp nhãn thanh tịnh. Lúc đó, năm ông đều cầu xin, theo Phật xuất gia. Đức Thế Tôn bảo:

    - Thiện lai tỳ kheo.

    Râu tóc của năm ông đều tự rơi, y ca sa tự đắp trên thân, tức thành Sa Môn. Phật lại thuyết năm ấm vốn là vô thường, khổ không vô ngã. Năm vị tỳ kheo đều diệt tận các lậu, liễu giải tâm ý Phật, chứng quả A La Hán. Ngay nơi đó, thế gian có năm vị tỳ A La Hán đầu tiên. Kế đến, Phật độ con ông trưởng giả Da Xá cùng năm mươi người bạn của ông. Ngài Ưu Lâu Phả Loa Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử, ngài Na Đề Ca Diếp cùng hai trăm năm mươi đệ tử, ngài Già Na Ca Diếp cùng hai trăm năm mươi đệ tử, ngài Xá Lợi Phất cùng một trăm đệ tử, ngài Mục Kiền Liên cùng một trăm đệ tử, tất cả đồng quy y Phật, thọ giới xuất gia làm Tỳ kheo.

    Tổng cộng là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Đầu tiên, các ngài tu theo Ngoại đạo, nhưng sau lại được Phật hóa độ, tu chứng quả thánh. Vì cảm kích thâm ân của Phật, nên một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo thường đi theo Phật giáo hóa. Trong những câu đầu của các bài Kinh, thường nói đến các ngài. Hôm nay, chúng ta xuất gia, theo Phật tu học. Song, có bốn hạng người xuất gia: Thứ nhất, thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia, tức thân tuy đi tìm cầu pháp mà tâm chẳng muốn thọ pháp. Thứ hai, thân tại gia mà tâm lại xuất gia, tức tuy vui vầy với vợ con mà không đắm nhiễm. Thứ ba, thân tâm đều xuất gia, tức nơi cảnh dục lạc, thân tâm không đắm nhiễm. Thứ tư, thân tâm không xuất gia, tức vui vầy với vợ con, tâm tham đắm nhiễm trước.

    Chúng ta hãy tự kiểm nghiệm xem coi, trong bốn hạng trên, mình thuộc hạng nào. Tôi xấu hổ muôn phần, thân tuy xuất gia, nhưng trải qua bao thập niên, lừa Phật ăn cơm. Tôi chỉ biểu diễn xuất gia ở bên ngoài, nhưng trong tâm vẫn chưa nhập đạo, chưa chứng lý thể thật tướng, chưa nhận thấy bốn đại là không, chưa đạt đến như như bất động, tức là tâm chưa xuất gia trọn vẹn. Thân tâm xuất gia trọn vẹn là một điều rất khó. Xưa kia, tại Ấn Độ các đại cư sĩ, tuy thân tại gia mà tâm lại xuất gia, như ông Duy Ma Cật, cô Nguyệt Thượng, phu nhân Mạt Lợi, hoàng hậu Vi Đề Hi.

    Tại nước Tàu, có ông Bàng Long Uẩn, vua Tống Nhân Tông, Trương Tương Dương, đều là những vị thâm thông Phật pháp; thân tuy cư tại trần lao mà tâm chẳng nhiễm thế tục. Chư đại Tổ Sư, thân tâm trọn vẹn xuất gia có hằng sa số. Các ngài là những bậc mô phạm trong nhà Phật, khiến hàng hậu lai khâm phục ngưỡng mộ. Các ngài hoằng pháp lợi sanh, làm Phật sự lớn, công đức vô lượng. Vua Thuận Trị đời Thanh sáu tuổi lên ngôi, hai mươi bốn tuổi xuất gia. Thân tâm của ông xuất gia trọn vẹn. Đối với những kẻ thân tâm không xuất gia trọn vẹn, tôi chẳng cần nhắc đến. Bậc chân chánh xuất gia thật hiếm có, và trở thành bậc đại pháp khí cũng không dễ. Ngài Khấu Băng Cổ Phật bảo:

    - Xưa kia, chư thánh hiền tu hành thành công, đều nhờ vào sự tiết chế khổ hạnh.

    Ngài Hoàng Bá bảo:

    - Nếu không chịu lạnh thấu xương cốt, thì hoa mai sao tỏa mùi hương!

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #7
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người xuất gia làm được những điều đó thật không phải dễ dàng. Có rất nhiều con đường để thoát ly sanh tử. Kinh Lăng Nghiêm bàn đến hai mươi lăm pháp môn tu hành viên thông. Tuy có hai mươi lăm pháp môn, nhưng không ngoài Thiền tông, Giáo lý, Luật, Tịnh Độ. Tông tức là Thiền tông. Giáo tức là kinh giáo. Luật tức là giới luật. Tịnh tức là tịnh độ. Bốn pháp môn này thậm thâm vi diệu. Thiền tông chỉ thẳng vào việc minh tâm kiến tánh, động tĩnh nhất như, nơi nơi đều là đạo. Bàn về thiền, có rất nhiều loại thiền, tà chánh đại tiểu không đồng. Giảng Kinh cũng như thế, cứu cánh phải đạt đến nơi đại khai viên giải; một niệm vượt ba ngàn cõi, tánh tướng dung thông, sự lý vô ngại.


    Niệm Phật cũng phải niệm đến nhất tâm bất loạn, mới chứng duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà, rồi nhập vào biển khổ Ta Bà, cứu độ chúng sanh. Tất cả pháp môn, đều không xa rời việc trì giới. Kinh Lăng Nghiêm bảo: "Nhiếp tâm là giới. Không đoạn tâm dâm dục, tất phải đọa vào đường ma. Không đoạn tâm giết hại, tất đọa vào thần đạo. Không đoạn tâm ăn cắp, tất đọa vào tà đạo. Không đoạn tâm đại vọng ngữ, nhân địa không chân chánh, thì chiêu quả quanh co. Hôm nay, sơ khởi Ta thuyết về cách nhập tam ma địa, tu pháp môn vi diệu. Muốn cầu đạo Bồ Tát, các ông trước tiên phải nghiêm trì bốn loại giới luật căn bản trên, khiến sáng trong như băng tuyết, tự không sanh cành lá. Tâm phạm ba điều, miệng phạm bốn lỗi, thân phạm ba việc, thì không thể sanh nhân Bồ Đề".

    Giới luật nhà Phật định chế tỳ kheo năm hạ đầu phải tinh chuyên giới luật. Sau năm hạ, đi tham tầm thiện tri thức để nghe giáo Kinh tham thiền. Tại sao? Vì việc tu hành, lấy giới luật làm thể. Giới là bùa hộ thân, xuất ra khỏi sanh tử. Nếu không có giới, nơi biển sanh tử mãi bị trầm luân khổ sở. Phật ví giới như chiếc phao vượt biển, không thể để hư hoại chút nào. Nếu phao bị vỡ, nhất định sẽ chết chìm. Vì vậy, Thiền tông, Kinh giáo, Tịnh độ, cùng tất cả pháp môn, đều lấy việc giữ giới làm đầu. Thế nên, người tu hành không thể bỏ qua ba pháp giới, định, huệ. Ba pháp này, nếu được viên dung thì sẽ đắc được vô ngại.

    Trì giới nếu không rõ khai giới và giá giới, không thông hiểu Đại Thừa và Tiểu Thừa, không biết nhân duyên Phật chế giới, cùng bao diệu môn, chỉ giữ giới chết cứng, cố chấp chẳng tinh tường, thì sẽ khiến đường tu học bị sai lệch. Ba học, tức giới định huệ, nếu viên dung thì đắc được giới phẩm bậc thượng. Muôn pháp môn không ngoài một tâm. Thế nên, thông đạt một pháp, tức thông đạt muôn pháp, đầu đầu vật vật tận viên dung. Một pháp chẳng thông thì muôn pháp không thể thông, đầu đầu vật vật đều đen ngòm. Không khởi một niệm, trong tâm đều đầy đủ muôn pháp. Phải hàng phục tâm như thế. Phải tham thiền cho giỏi, niệm Phật cho hay. Giảng kinh thuyết pháp thế gian cùng xuất thế gian, mọi việc đều là đạo, và tùy chỗ vô sanh, tùy nơi vô niệm. Còn vọng niệm tức còn sanh tử.

    Người tu hành, trước hết phải trừ ngã tướng. Nếu không có ngã tướng, các vọng niệm đều tan. Trừ chấp ngã xong, lại phải trừ chấp pháp. Chấp ngã thì thô kệch, còn chấp pháp rất vi tế. Bình thường, vào lúc giảng thuyết, mở miệng thì bảo tôi như này như thế nọ. Nếu thật vô ngã thì mọi việc đều như băng tan ngói vỡ, và muôn pháp đều vô ngại. Vì có thể vô ngã vô nhân, nên thói quen tập khí đều không còn. Đã là Phật tử, chánh tín xuất gia, cầu pháp xuất ly, phải quên mình mà nỗ lực tu hành, chớ để cảnh chuyển, và chớ sống qua ngày trong phiền não. Người Phật tử, nếu không hàng phục tâm kia, mà lầm lạc trong nhất niệm, tơ hào sơ xuất, thì cách xa trời đất; lỡ một bước chân, ân hận ngàn đời. Phải tu hành như cứu lửa cháy đầu. Nghiêm thủ giới luật như giữ gìn phao vượt biển, chẳng để bị thủng chút nào.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •