PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
__________________________________________________ ______________________________________
6/ Ngày hai mươi bốn tháng ba
Hôm nay, có các vị pháp hữu phát tâm yêu cầu tôi thuyết Ngữ lục. Tôi thấy việc này vô ích, vì Kinh điển nhà Phật, cùng bao lời dạy bảo của chư Tổ Sư, thật nhiều vô số. Tất cả lời giáo huấn đó, quý vị không chịu xem đọc, mà chỉ muốn tôi nói những việc bên Đông bên Tây, lưu truyền ra ngoài có ích gì?
Từ xưa đến nay, Phật giáo truyền vào nước Tàu, lưu lại rất nhiều Kinh Luật Luận, chú giải điển chương, ngữ lục. Buổi đầu, được kết thành Đại Tạng. Đầu tiên, vua Tống Thái Tổ, niên hiệu Khai Bảo thứ tư (971), sai Truơng Tùng Tín đến Tây Xuyên, thuê thợ khắc Kinh Tạng. Đến đời vua Tống Thái Tông, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ tám (983), trải qua mười ba năm, mới khắc thành 'Thục Bản Đại Tạng Kinh', được gọi là bản Đại Tạng Kinh đời Bắc Tống. Đây là một công trình rất tinh vi kỹ lưỡng. Song, sau này dần dần bị tán lạc mất. Cuối đời Tống, có tạo khắc bản Đại Tạng Kinh bốn lần. Bản Đại Tạng Kinh cuối cùng, khởi công in khắc vào đời vua Lý Tông, niên hiệu Thiệu Định, năm thứ tư (1231), tại viện Diên Thánh ở Tích Sa, cho đến đời vua Nguyên Quý Phương mới hoàn thành, được gọi là bản Đại Tạng Tích Sa.
Người xem bản Đại Tạng Kinh này rất ít. Hai chùa tại Xiểm Tây ở Tây An là Khai Nguyên và Ngọa Long, còn giữ được bộ Đại Tạng Kinh này, được gọi là Đại Tạng Kinh Hoàn Bích. Triều Minh, đời vua Chu Khánh Lan, Đại Tạng Kinh được in ấn lại. Dân Quốc năm thứ hai mươi mốt (1932), hội ấn hành Tống Đại Tạng Kinh ra đời tại Thượng Hải. Hội sắp đặt, soạn thảo theo thứ tự, rồi tích cực ấn hành. Đầu tiên, hội phái người đến Xiểm Tây, kiểm tra lại số Kinh sách, tính được hết là sáu ngàn ba trăm mười quyển, còn thiếu hơn một trăm quyển. Thế nên, hội dùng bộ Tống Tư Khê, do nhà xuất bản Tùng Ba tại Bắc Kinh ấn hành, để bổ khuyết vào Đại Tạng Kinh, nhưng vẫn chưa đủ. Hội lại ủy thác tôi đem những bộ kinh tại chùa Dõng Tuyền như Đại Tạng Kinh Tích Sa, kinh Đại Bát Nhã, kinh Bảo Tích, để thêm vào cho đủ.
Lạ lùng thay, ngọc báu Đại Tạng Kinh đã bị chôn vùi mấy trăm năm, nay được lưu truyền trong toàn quốc. Song, có một khuyết điểm là việc kiểm duyệt lại bộ Đại Tạng Kinh rất bất tiện. Đời Minh, thiền sư Tử Bá phát tâm in khắc rất nhiều Kinh điển. Sau khi bản Đại Tạng Kinh Gia Hưng được lưu thông, việc kiểm duyệt rất tiện lợi. Gần đây, ở Hàng Châu có hai vị cư sĩ, Tiễn Khoan Huệ và Tần Khoan Phước, thấy có Tăng nhân bán Kinh sách cho dân chúng để làm giấy dùng hằng ngày, nên họ tận lực phát tâm mua lại những quyển Kinh sách đó, rồi gởi về núi Vân Cư. Hiện tại, núi Vân Cư có các bộ Đại Tạng Kinh như bộ Đại Tạng Tích Sa, Đại Tạng Tần Già, cùng những bộ Kinh khác, rất đầy đủ và dễ dàng trong việc kiểm duyệt.
Thông một pháp thì muôn pháp đều thông, chứ chẳng câu nệ nơi việc đọc nhiều Kinh điển. Có thể xem toàn bộ Đại Tạng Kinh trong ba năm để gieo nhân lành thành Phật. Song, đọc xem Đại Tạng Kinh như cỡi ngựa ngắm hoa. Nếu muốn đạt lợi ích chân thật, phải đọc tụng thuộc làu thành thục. Theo ngu kiến của tôi, người sơ phát tâm tu thiền, nên chuyên chú học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, tức chỉ cần học thuộc lòng mà không cần xem chú giải. Khi học thuộc bộ Kinh này rồi, thì dùng văn Kinh phần trước giải thích phần sau, hay văn Kinh phần sau giải thích phần trước. Bộ Kinh này thuyết kỹ càng tinh tế, từ phàm phu đến quả vị Phật, từ vô tình đến hữu tình, cùng núi sông đất đá, bốn Phàm sáu Thánh, tu chứng mê ngộ, giới luật sự lý nhân quả. Bởi thế, lợi ích học thuộc Kinh Lăng Nghiêm là sẽ thấu suốt được những vấn đề đó.