PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
Phần 4 _ XX. Thiền thất khai thị lần thứ nhất
__________________________________________________ ______________________________________


7/ Ngày thứ bảy, (28/2)

Chúc mừng quý vị! Công đức tu hành đến nay đã hoàn mãn. Chiếu theo quy củ của nhà thiền, những vị đã chứng ngộ, phải bước vào thiền đường để được khảo hạch, như những cuộc khảo thí ở kinh đô. Hôm nay là ngày tuyên bố thí sinh trúng tuyển. Chúng ta phải nên chúc mừng. Hòa Thượng trụ trì thật là từ bi, quyết định rằng ngày mai sẽ tiếp tục đả thiền thất, để cho quý vị có thể gia công tu hành được mau tăng tiến. Những vị tu hành lâu năm, chắc đều biết rằng đây là nhân duyên thù thắng. Vì vậy, đừng để thời gian trôi qua vô ích. Người phát tâm tu hành, phải biết thân người khó được, sống chết là việc lớn. Phải nên biết rằng thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Thiện tri thức khó gặp. Hôm nay, đích thân quý vị đã đến núi châu báu, thì phải nên ra sức nỗ lực dụng công. Chớ trở về tay không.

Pháp trong tông môn, tôi đã giảng qua. Từ lúc Thế Tôn cầm cành hoa dạy đại chúng, cho đến trải qua bao đời, đường hướng tông môn, vẫn được truyền mãi đến ngày nay. Tôn giả A Nan tuy là em Phật và làm thị giả hầu cận đức Thế Tôn, nhưng vẫn chưa đại triệt đại ngộ. Sau khi Phật nhập Niết bàn, chư Thánh tăng A La Hán không cho ngài A Nan tham gia hội kết tập đại tạng Kinh điển. Tôn giả Ca Diếp bảo:

- Ngài chưa đắc được tâm ấn của đức Thế tôn. Thỉnh Ngài ra ngoài xô ngã cột trụ.

Nghe thế, tôn giả A Nan liền đại ngộ. Ngài Ca Diếp phó chúc, truyền tâm ấn Như Lai cho ngài A Nan. Như thế, ngài A Nan là vị tổ thứ hai ở Ấn Độ. Đời đời tương truyền y bát. Sau đời các tổ Mã Minh, Long Thọ, có lão nhân Huệ Văn ở Thiên Thai vào thời Bắc Tề (550-78), nhân xem luận Trung Quán, phát minh tâm địa, nên lập ra tông Thiên Thai. Khi đó, tông môn được hưng thịnh khắp nơi. Sau này, khi tông Thiên Thai bị suy vi, có quốc sư Đức Thiều qua Cao Ly sao chép luận giải của ngài Trí Giả, rồi trở về xiển hưng chấn chỉnh lại tông phong. Ngài Đạt Ma là vị tổ Ấn Độ thứ hai mươi tám truyền pháp sang Đông Độ, tức là sơ tổ Trung Hoa. Từ ngài Đạt Ma truyền đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thì đuốc tâm khai sáng khắp nơi. Dưới Lục Tổ Huệ Năng có bốn mươi ba người khai ngộ như tổ Hành Tư và tổ Hoài Nhượng. Đến đời Mã Tổ, lại có thêm tám mươi ba vị Thiện tri thức. Lúc đó chánh pháp hưng thịnh mạnh mẽ. Quốc vương, đại quan đều cung kính tôn trọng.

Tuy đức Như Lai thuyết pháp rất nhiều, mà giáo chỉ tông môn thù thắng hơn hết. Pháp môn niệm Phật cũng do tổ Mã Minh và tổ Long Thọ tán dương. Kế ngài Huệ Viễn, có thiền sư Vĩnh Minh làm tổ thứ sáu của tông Tịnh Độ. Sau này, có rất nhiều vị thiền sư trong tông môn hoằng dương tông Tịnh Độ.

Pháp Mật Tông phát triển từ đời thiền sư Nhất Hạnh. Sau đó truyền sang Nhật Bổn. Ở Trung Hoa, từ đó trở đi không người thừa kế.

Tông Duy Thức do ngài Huyền Trang đề xướng, chẳng bao lâu cũng diệt mất.

Đơn độc, chỉ có tông môn là được truyền thừa lâu dài nhất. Thiên thần quy y, rồng hổ bái phục.

Trong chúng hội Tiên nhân có Lữ Động Tân, biệu hiệu Thống Dương, người Kinh Châu. Vào đời Đường, ông lên kinh đô thi rớt ba lần, nên không muốn về nhà. Lúc đi ngang qua một quán rượu ở Trường An, gặp Chung Ly Quyền, dạy cho phép trường sanh bất tử. Lữ Đồng Tân y theo đó tu hành. Sau này, phi hành tự tại, đi khắp thiên hạ. Ngày nọ, ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, bay lên lầu chuông, đề bốn câu thơ: