PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
Phần 4 _ XXI. Thiền thất khai thị lần thứ hai
__________________________________________________ ______________________________________


Tổ Quy Sơn bảo:

- Hận cho mình sanh nhằm thời tượng pháp, cách xa đời Thánh giáo, Phật pháp giảm dần, nhiều người giải đãi, làm biếng. Song, tôi không ngại đưa ra cái nhìn thô thiển của mình cho những kẻ hậu lai.

Ngài Quy Sơn Linh Hựu (618-906), người Phước Kiến, thân cận thiền sư Bá Trượng, phát minh được tâm địa. Tư Mã Đầu Đà tại Hồ Nam, thấy địa thế núi Quy Sơn vốn là linh địa, nơi xuất sanh ra một ngàn năm trăm vị thiện tri thức. Khi đó, dưới tòa Bá Trượng, ngài Linh Hựu làm điển tọa. Vừa thấy ngài Linh Hựu, Tư Mã Đầu Đà liền biết đây là chủ nhân của núi Quy Sơn, nên thỉnh ngài Bá Trượng cho vời Linh Hựu qua núi Quy Sơn khai sáng. Ngài Quy Sơn sống trong đời Đường, mà Phật pháp trong thời đó thuộc về cành lá của đời tượng pháp. Tuy thế, ngài Linh Hựu lại tự than trách là mình sanh không nhằm thời, khó mà thông hiểu Phật pháp. Tín tâm của chúng sanh ngày càng lui sụt, không dám chịu đựng khổ nhọc để tu đạo, nên không thể nào có cơ hội chứng quả vị Phật. Ngày nay, chúng ta sống cách xa đời ngài Quy Sơn cả một ngàn năm. Không những đời tượng pháp đã hết, mà đời mạt pháp đã trải qua hơn chín trăm năm. Người có căn lành ngày càng ít ỏi. Tuy tin Phật thì đông, nhưng kẻ chân thật tu hành ngộ đạo lại quá ít.

So sánh sơ lược, người học Phật hiện tại, có rất nhiều phương tiện. Vào thời Hàm Phong (1851-62), các chùa chiền tự viện đều bị phá hoại. Dưới miền xuôi Tam Giang, chỉ còn có chùa Thiên Đồng là được bảo toàn. Đến năm Thái Bình Thiên Quốc (1850-64), các vị trưởng lão từ núi Chung Nam xuống trùng hưng lại các tự viện. Khi đó, các ngài chỉ có một bình bát và giỏ tre, chứ không có những vật lăng nhăng khác. Sau này, Phật pháp dần dần hưng thịnh trở lại. Chư Tăng bắt đầu mang đầy hành lý. Ngày nay, chư Tăng còn mang theo cặp táp, rương cáp, đủ thứ cả. Đối với sự chân chánh hành trì Phật pháp, một điểm nhỏ cũng không bàn tới.

Xưa kia, thiền sinh muốn đi tham phương cầu đạo, phải lội bộ nhọc nhằn. Ngày nay, có xe lửa, xe hơi, tàu bè, máy bay. Vì thế, chỉ lo hưởng phước, không muốn chịu khổ. Đa số đều phóng dật làm biếng. Tuy các Phật học viện cũng tùy thời mà huấn luyện dạy dỗ Tăng chúng, khiến đoàn thể chư Tăng ngày càng đông, nhưng đối với sự tu hành căn bản thì lơ là, ít ai chịu xoay đầu nhìn lại. Ngày ngày, từ sáng đến tối chỉ cầu tri giải, không cầu tu chứng, mà không biết rằng pháp tu chứng là chìa khóa, giải quyết mọi vấn đề. Trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia Huyền Giác bảo:

"Hãy bám gốc, chớ giữ ngọn

Như hạt lưu ly thanh tịnh chứa bảo nguyệt

Ôi! Thời mạt pháp, cõi đời ác trược

Chúng sanh phước kém, khó điều phục

Xa rời Thánh giáo, tà kiến thâm trọng

Ma cường pháp nhược, nhiều oán hận

Nghe môn đốn giáo của Như Lai

Hận không diệt trừ đập nát

Làm tại tâm, họa tại thân

Chẳng nên gieo oán hờn cho kẻ khác

Nếu muốn không chiêu nghiệp Vô gián

Chớ phỉ báng Chánh pháp luân Như Lai

Tôi sớm tích tụ nhiều học vấn

Cũng từng thảo sớ tầm Kinh Luận

Phân biệt danh tướng không biết ngừng

Bị vây trong tính toán cát biển khơi

Liền bị Như Lai quở trách

Đếm trân bảo của người, có ích lợi gì".